CHỮ KÝ TRONG TÊN TIỆM
ĂN,
CHỮ ĐƯỜNG TRONG TIỆM
THUỐC,
CHỮ TỰ Ở CÁC CHÙA VÀ
CHỮ KIM Ở TIỆM
VÀNG....
Đỗ Duy Ngọc.
Thời còn đi học, nhất
là mấy năm đầu, bởi vì học ban Việt Hán, có môn Hán văn nên chịu tìm tòi chữ
Hán dữ lắm. Còn nhớ hồi ấy GS Trần Trọng San, một người có in sách dịch thơ
Đường và GS Phan Hồng Lạc dạy môn đấy. Học Hán văn thì phải có tự điển, cuốn Tự
điển Hán Việt của tác giả Thiều Chửu là cuốn sinh viên nào cũng ráng mua về để
tra cứu. Trong lớp có mấy bạn là thầy tu Phật giáo đã có học chữ Hán trong chùa
nên rất giỏi môn này.
Tôi nhờ có chút hoa tay nên chỉ được viết chữ đẹp thôi, còn Hán không rộng lắm.
Để khắc phục yếu kém của mình, tôi và vài người bạn thường vào Chợ Lớn, nhìn
các bảng hiệu để đoán chữ như là một cách học thêm. Thuộc cho đủ 214 bộ thủ
trong chữ Hán cũng là việc không dễ cho những người mới học chữ Hán, nhưng
không thuộc được 214 bộ này thì sẽ khó tiến bộ và tiếp thu rất chậm.
Và trong những lần lang thang học chữ như thế, tôi lại có thắc mắc sao tên các
tiệm, các quán ăn của người Hoa thường có chữ Ký, các tiệm thuốc và chữa bệnh
có chữ Đường, các chùa chiền thường có thêm chữ Tự, nhiều tiệm vàng có chữ Kim
v.v... Chính vì tò mò nên tôi tìm hiểu cho ra, bởi tánh tôi ngay từ bé muốn
biết cái gì cũng phải tường tận.
Trước hết là chữ Ký. 記. Ở Sài Gòn, Chợ Lớn ta
thường bắt gặp nhiều bảng hiệu như Lương ký mì gia, Bồi Ký Mì Gia, Thiệu Ký Mì
Gia, Hải Ký Mì Gia, Huê Ký Mì Gia... bằng tiếng Việt kèm thêm tiếng Hoa. Theo
tự điển thì Ký có nghĩa là ghi chép, là ghi lại như nhật ký, bút ký... nhà báo
gọi là ký giả...
Tuy nhiên trong trường hợp này, Ký không chỉ là ghi
chép. Nó còn có nghĩa là ghi nhớ, như vậy đặt tên quán có chữ Ký là để thực
khách đến ăn và nhớ tên quán của mình. Cho nên trước chữ Ký là tên riêng hoặc
từ mang ý nghĩa tốt đẹp thành biển hiệu của quán. Còn mì gia được hiểu đơn giản
chỉ là tiệm mì, nhà làm mì, nơi bán mì, mì gia truyền. Tức là muốn khẳng định
đây là quán bán mì ngon do quán làm ra, bằng công thức truyền từ đời này sang
đời khác.
Nhưng từ Ký không chỉ có ở các tiệm bán mì, nó còn
có ở các quán ăn như Chuyên Ký bán cơm thố, Tuyền Ký là quán ăn của người Hẹ,
hay Phúc Ký, Phát Ký. Và theo An Chi, một người chuyên nghiên cứu về chữ nghĩa
thì sau khi tìm hiểu từ những người gốc Hoa, từ “ký” lộ ra rất nhiều nghĩa, và
hiểu là dấu ấn, nhớ, danh dự, dấu hiệu đều có lý. Nhưng cuối cùng thì ông cũng
chốt lại cách lý giải khoa học nhất:
“Mathews’ Chinese – English Dictionary đối dịch Ký
là a sign, a mark và Ký hiệu là trade-mark. Trade-mark, chẳng phải gì khác hơn
là nhãn hiệu, thương hiệu.
Vậy cái là nghĩa gốc chính xác của chữ Ký trong
Tường Ký, Chánh Ký, v.v… chẳng qua chỉ là “hiệu”. Chính vì thế nên chủ một số
cửa hàng người Hoa mới đặt bảng hiệu của mình bằng một danh ngữ mà “ký” là
trung tâm (đứng cuối) còn đứng trước là một trong những chữ dùng làm tên riêng
cho cửa hàng của mình”.(Sài Gòn Giải Phóng Online, ngày 16.08.2016)
Tóm lại chữ Ký trên biển hiệu của các quán ăn người
Hoa có nghĩa là ghi nhớ đến quán, là để nhớ đến, là nhãn hiệu xem như đã được
cầu chứng.
Lại tiếp đến từ Đường 堂. Ở các tiệm thuốc Bắc
hay các nơi bắt mạch, hốt thuốc của người Hoa như Ích Sanh Đường, Hạnh Lâm
Đường, Tế Sinh Đường... Chữ Đường vốn trong tiếng Hán là có ý chỉ nhà lớn, phủ
quan. Thế nhưng các tiệm thuốc có mang chữ Đường xuất phát từ một chuyện thời
xưa ở bên Tàu của một trong những thầy thuốc danh tiếng bậc nhất trong lịch sử
Trung Quốc: Thánh Y Trương Cơ.
Trương Cơ (张机), tự Trọng Cảnh, sinh
năm 150 mất năm 219, là một thầy thuốc Trung Quốc hoạt động vào cuối đời Đông Hán.
Ông được xưng tụng là “Thánh y” (医圣) của Đông y. Tác phẩm quan trọng nhất của ông,
Thương hàn tạp bệnh luận, tuy đã thất lạc trong giai đoạn Tam Quốc nhưng sau đó
đã được tổng hợp lại thành hai tập sách Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược, là
hai trong bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y. Có một thời gian ông đến làm
thái thú tại Trường Sa, đúng lúc dân gian đang có dịch thương hàn. Để cứu chữa
cho dân, ông đã vừa làm việc quan vừa chữa bệnh. Và như vậy ông đã công nhiên
phá vỡ giới luật nghiêm ngặt thời phong kiến: ngồi tại công đường kê đơn bốc
thuốc cho dân. Ông thường ghi thêm trước tên của mình bốn chữ tọa đường y sinh.
(Wikipedia)
Sau này để ghi nhớ công ơn của vị thánh y đầy đức
độ và tài giỏi, người ta thường gọi những người ngồi trong nhà thuốc trị bệnh
thành “tọa đường y sinh”, tức là người thầy thuốc ngồi ở nhà lớn. Và cũng từ
đó, các thầy thuốc Bắc thường cho chữ Đường vào tên nhà thuốc của mình thành
một thói quen cho đến nay.
Đến chữ Tự trong tên của các chùa. Tự (寺): là tiếng Hán, theo
tự điển giải nghĩa là chùa.
Ngày nay chữ này được dùng đứng sau làm thành tố
chính để kết hợp với một từ định danh nào đó tạo thành một cụm danh từ nêu tên
gọi một ngôi chùa cụ thể, như Trấn Quốc Tự, Kim Liên tự, Quang Minh Tự, Bửu Lâm
tự, Vĩnh Nghiêm Tự, Thiếu Lâm Tự, Pháp Vân Tự... và như thế ai cũng hiểu Tự
nghĩa là chùa cho nên ghi là thế nhưng người Việt vẫn thường gọi là chùa Trấn
Quốc, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Thiếu Lâm, chùa Pháp Vân... Nhưng thật ra trong
ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại thì nghĩa của Tự không phải là chùa vì Phật giáo mới
tiến nhập Trung Quốc từ đầu Công Nguyên, trong khi chữ Hán thì đã có sớm hơn
rất nhiều.
Vốn ngày xưa Tự vốn là từ để chỉ cơ quan làm việc
cụ thể của bộ máy chính quyền phong kiến. Sách Hán thư chú: Phàm phủ đình sở
tại giai vị chi tự (nói chung nơi làm việc của phủ đình đều gọi là Tự). Khang
Hy tự điển chú khá rõ điều này: Hán dĩ Thái thường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái
bộc, Đình úy, Đại hồng lô, Tông chính, Tư nông, Thiếu phủ vi cửu khanh. Hậu
nguy dĩ lai danh tuy nhưng cửu nhi sở lị chi cục vị chi Tự. Nhân danh Cửu tự
(đời Hán lấy Thái thường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái bộc, Đình úy, Đại hồng
lô, Tông chính, Tư nông, Thiếu phủ làm Cửu khanh. Ngụy trở về sau tuy vẫn để
như cũ nhưng các sở cục thì gọi là Tự. Vì vậy mà thành tên Cửu tự (thay cho Cửu
Khanh). Thế tại làm sao từ chỗ làm việc, Tự biến thành nghĩa là chùa?
Hán Minh Đế Lưu Trang (25-75CN) là vị vua đầu tiên
thừa nhận địa vị của Phật giáo ở Trung Quốc. Tương truyền nhà vua nằm mộng thấy
“người vàng” bay qua sân điện, bèn sai sứ giả 12 người do Lang Trung Thái Âm
dẫn đầu sang Tây Trúc cầu tìm đạo Phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình 7 (năm 64
CN). Ba năm sau (năm 67CN), sứ giả về với hai tăng nhân người Ấn Độ cùng rất
nhiều kinh sách và tượng Phật được thồ trên lưng ngựa trắng. Lúc các tăng nhân
cùng kinh, tượng, về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng nên
cho ở tạm trong Hồng Lô tự (một cơ quan trong Cửu khanh hay Cửu Tự). Sau đó nhà
vua mới cho xây dựng cái mà chúng ta gọi là chùa để thờ Phật và các tăng nhân
tu tập. Kiến trúc xây dựng theo kiểu mẫu dinh thự của quý tộc đương thời.
Sau đó chùa được xây dựng ngày càng nhiều cũng theo
kiểu mẫu nhà ở của địa phương. Chính vì vậy mà chùa ở Trung Quốc, và cả ở Việt
Nam khi tiếp nhận Phật giáo theo hướng Trung Quốc, có kiểu chùa rất riêng,
không theo quy chuẩn mái cong tháp nhọn như nơi Phật giáo phát nguyên.
Nhân vì kinh và tượng Phật được thồ về trên lưng
ngựa trắng nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Tự là chỗ đầu tiên tăng nhân tạm trú
khi đến Trung Quốc nên được chuyển sang làm thành tố chính để gọi tên cho ngôi
chùa: Bạch Mã Tự, ngôi chùa phật giáo đầu tiên của Trung Quốc. Kể từ đó, nơi
thờ Phật và để kinh sách cho các đạo hữu tín đồ đến học tập, đọc kinh, nghe
thuyết pháp đều có chữ Tự sau tên gọi.
Lại bàn về chữ Kim ở các tiệm vàng. Trước 1975 ở
miền Nam, tên tiệm vàng nào cũng có chữ Kim. Nó bắt nguồn từ một thương hiệu
vàng nổi tiếng ở Việt Nam là vàng lá Kim Thành. Vàng lá Kim Thành là nhãn hiệu
vàng thương phẩm nổi tiếng tại vùng Đông Nam Á vào thời kì trước 1975, được
dùng làm phương tiện trao đổi và cất giữ tài sản. Vàng lá Kim Thành có độ tinh
khiết 999,9. Một lượng vàng lá Kim Thành có cân nặng đúng 37,5 g (khoảng 1,2
troy ounce), gồm 3 lá: 2 lá nặng 15 g mỗi lá và 1 lá nặng 7,5 g. Các lá này
được bọc chung trong lớp giấy dầu mang nhãn hiệu của nhà sản xuất.(Wikipedia)
Kim Thành là nhà buôn bán và tinh chế vàng lớn nhất
vào lúc đó, với trụ sở tại Sài Gòn và chi nhánh tại Hà Nội, Hồng Kông và Phnôm
Pênh. Vàng lá Kim Thành nổi tiếng như cồn thế cho nên các tiệm buôn vàng bắt
chước theo gắn tên Kim vào tên hiệu của mình.
Hơn nữa, Kim 金 có nghĩa là Vàng, là kim loại qúy có ký hiệu
hóa học là Au (L. aurum) và số nguyên tử là 79. Vàng 24K là vàng ròng, không tạp
chất. Đặt tên có chữ Kim là tiệm bán vàng tốt, vàng nguyên chất, vàng có uy tín.
Ngày trước người ta chỉ dùng một tên, một từ có thể là tên riêng, tên chủ hiệu
hoặc một chữ mang ước vọng, mong đợi của chủ nhân kèm với chữ Kim. Ví như Kim
Vân, Kim Liên, Kim Phúc, Kim Đức, Kim Phát... Sau năm 1975 hình như truyền
thống này có bớt đi nhiều, giờ đây tiệm vàng đặt tên theo ý thích của chủ nhân,
cũng chẳng cần kèm theo chữ Kim nữa.
Rảnh vì trốn dịch, nhớ thì viết tào lao chơi vậy
thôi chứ thật ra chữ nghĩa nó vô cùng. Để giải thích thì vô cùng tận. Thời nay
có ông Hoàng Tuấn Công, đang ở miền ngoài, ông này kiến thức sâu lắm lại rất
rành về chữ nghĩa. Viết thế này mà bị ông ấy phê một bài là quê một cục. Nên
đành dừng ở đây vậy. Nói nhiều, viết nhiều dễ lộ cái ngu, cái kém của mình
he...he.
Đỗ Duy Ngọc
https://saigonnhonews.com/
No comments:
Post a Comment