Tết,
có đứa em bà con ở Nhật đã nhiều năm về và lên nhà chơi, tôi hỏi hắn về những
khác biệt văn hóa giữa hai nước. Hắn kể nhiều, nhưng tôi muốn ghi lại chi tiết
này, là người
Nhật không chửi nhau.
Hắn nói, điều đầu tiên được dạy khi đến Nhật là “không làm phiền người khác”,
tuyệt đối không. Nhưng người Việt mình thì vốn quen với phong tục làng xã,
thích tụ tập quây quần và dường như không thể sống một mình như người Nhật, nên
luôn tụ lại, ăn nhậu, hát hò, chuyện trò rầm trời. Mỗi khi như thế, một ông chủ
hay hàng xóm người Nhật, họ sẽ chỉ nhắc nhở một lần “các bạn nhỏ lại một
chút, đừng làm ồn”, lần sau thì báo cảnh sát luôn. Họ không chửi, việc mâu
thuẫn, vi phạm, bất hòa sẽ luôn được nhờ đến cảnh sát và tòa án, trong trường
hợp chưa có sự can thiệp của các cơ quan ấy thì chuyện chửi nhau như Việt Nam
cũng không bao giờ xảy ra.
Hình
ảnh hai người đứng bên bờ rào chửi sang hay la hét trên phố mỗi lần có va chạm của người Việt mình là chuyện
hoàn toàn xa lạ và quái đản đối với người Nhật.
Tôi nghĩ về cái chửi của người Việt mình. Phải chăng, chính vì trong
suốt chiều dài lịch sử, cho đến hôm nay, chúng ta chưa từng có một bộ máy nhà
nước đủ trách nhiệm và
công tâm để người dân trông cậy, nên việc “tự giải quyết” đã trở
thành phương cách chủ đạo trong đời sống xã hội, mà ở đó “chửi” là một lựa chọn
dễ nhất, và lắm khi hiệu quả?
Trong
khi không đòi được công bằng nhờ một trọng tài có trách nhiệm và công tâm, thì
tiếng chửi sẽ giúp sát thương và hủy hoại đối phương bằng ngôn từ. Điều ấy mang
lại cho họ chút thỏa mãn vì “công lý đã được thực thi”.
Người Việt không có phòng riêng. Những ngôi nhà “cổ truyền” của người Việt là 3
gian thông với gian giữa để thờ và 2 đầu kê giường ngủ. Căn buồng thì thường để
cất lúa ngô khoai sắn và cất giữ vài thứ tài sản nghèo nàn nào đó, chứ không
phải một không gian cá nhân. Nếu nhà đông người mà có con gái lớn thì có thể sẽ
được dành cho một cái chái nhà (đầu hồi), vừa đủ kê một chiếc giường nhỏ. Nói
chung, ngôi nhà của người Việt là một không gian công cộng.
Công cộng không chỉ là đối với người trong nhà, mà còn là đối với hàng xóm.
Người Việt hay đi tắt, cứ sát nhà nhau là mở lối (lỗ thủng) để đi qua, cho
tiện! Vào nhà nhau, dù bằng đường tắt hay cổng chính thì cũng vẫn “tự nhiên như
ruồi”. Người ta tới nhà nhau chơi mà không có thói quen hẹn trước, cứ thể hồn
nhiên mà tới.
Ngày
nay, dù đã “hiện đại hóa” nhưng thói quen đi thẳng vào phòng ngủ, ngồi lên
giường, mở tủ lạnh “kiểm tra” vẫn được coi như một biểu hiện của sự thân tình,
gần gũi. Khi không có ý niệm về sự riêng tư và đời sống cá nhân thì việc vào ra
như thế phải trở thành lẽ thường. Nếu trong làng mà có một gia đình nào đó “kín
cổng cao tường”, ít giao du thì rất dễ mang tiếng là “sống không biết ai”,
“không có tình làng nghĩa xóm”…
Người Việt ở nông thôn cách đây vài chục năm thậm chí còn không có nhà tắm.
Người ta tắm lộ thiên ngay bên cạnh giếng khơi bằng cách đứng mà dội nước ào
ào. Phụ nữ muốn tắm thì phải đợi trời tối. Nghĩ đến những ngày mùa đông rét
cóng, cảnh đàn bà con gái dội nước lạnh vào người giữa trời gió bấc hun hút mà
vừa thương vừa giận. Đôi khi chúng ta không thể hiểu nổi, tại sao việc chôn 4
cây cọc tre và quây miếng cót nứa cho thành một cái “nhà tắm” lại khó khăn tới
mức trải suốt hàng nhiều trăm năm lịch sử mà người Việt không thể làm nổi!
Có lẽ không phải vì không thể làm nổi cái việc chia phòng hay quây cái nhà tắm,
mà là người ta không muốn làm, hay không cần làm. Vì tự trong sâu thẳm, họ
không có nhu cầu riêng tư. Ngôi nhà là một không gian công cộng, đình làng cũng
là một không gian công cộng, họ luôn phải thuộc về tập thể, biến mất trong tập
thể, nhạt nhòa và tan loãng. Chính những khó khăn trong đời sống vật chất một
phần đã giữ chặt họ trong nếp sống quảng trường ấy, vĩnh viễn biến họ trở thành
một phần của đám đông muôn đời.
Sự bất tiện kéo dài đến nghìn năm thì thành “văn hóa”, thành tính cách và lối
sống. Dần dần người ta
mất luôn nhu cầu độc lập. Người Việt không thể sống một mình. Những kẻ một mình
là loại lập dị và thường gây nên nỗi thương cảm, nếu không phải là sự dè bỉu.
Người ta phải quây lại với nhau, trở thành bầy đàn.
Không có sự độc lập, hay nói theo ngôn ngữ văn chương là “sự cô đơn”, thì không
có sáng tạo. Nếu nhân cách là một phân số, thì người Việt sống bằng một tử số
rất bé trên một mẫu số cộng đồng lớn lao. Giá trị của phân số ấy vì thế mà trở
nên nhỏ tí, tan biến
và gần như chạm đến mức cực tiểu. Đời sống tập thể ồn ào với ăn, nói, hát,
chung đụng đã trở nên một nhu cầu, một thứ bản năng, trở thành niềm vui và
thước đo của hạnh phúc.
Oái oăm thay, như những con nhím mùa đông, người ta vì nỗi thống khổ của rét
mướt mà sáp lại, nhưng luôn bị những chiếc lông nhọn hoắt châm chích vào nhau.
Đó là một bi kịch của sự sung sướng được san sẻ cộng gộp luôn nỗi khó chịu
phiền hà đau nhức. Người Việt ở trong tình thế lưỡng nan ấy, họ vừa không thể
xa nhau nhưng lại cũng vừa không thể rúc hẳn vào nhau.
Bi kịch chồng lên bi kịch. Cái tôi là một bản năng tiền sử, nó luôn có
nhu cầu cần được bảo vệ
và cần được chứng tỏ. Vì
thế, dù khát vọng tụ tập lớn tới đâu, nó vẫn luôn âm thầm một mãnh lực chống
đối và tị hiềm. Người Việt, vì thế, “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng”.
Trong một tập thể khổng lồ không có cơ may xé lẻ, nhìn từ bên ngoài là “đoàn
kết”, là “lớn mạnh” nhưng bước chân vào trong thì đầy rẫy mâu thuẫn với những
tiếng nổ lách tách làm nứt ra các vết rạn lớn nhỏ. Những tiếng nổ lục đục ấy
diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong khi vừa sung
sướng vì sà vào nhau, nỗi bất mãn cũng đồng thời nhen nhúm lên. Cứ như
thế, người Việt bị lưu đày trong lối sống của mình.
Tôi hỏi đứa em về đời sống tình cảm của người Nhật, hắn nói: “Em đã rời công ty
cũ hơn 2 năm, nhưng đến nay họ vẫn thường gọi điện thoại hỏi thăm và
hay căn dặn mình nhiều thứ, vì sợ mình gặp phải những điều bất lợi, không may”.
Hắn nói thêm, nhưng công việc thì ra công việc. Nếu không hiểu thì thấy họ như
“người máy”, đúng là đúng, sai là sai, không bao giờ có chuyện vừa đúng vừa
sai, du di, chín bỏ làm mười như người Việt mình. Đi làm cho họ hay với họ, nếu
mình vi phạm, dù thân thiết và chỉ là đối với những nguyên tắc nhỏ nhặt nhất,
thì họ vẫn rạch ròi tới mức khiến mình bị “chấn động văn hóa”, vì người Việt mình trong
những tình huống như thế sẽ lựa chọn xuề xoa “một trăm cái lý không bằng một tý
cái tình”.
Cái tình của người Việt, vì thế, có lẽ là thứ tình nhiều lúc vì cả nể, vì ngại
mất lòng, nó tù mù và luôn tiềm ẩn nguy cơ “cạch mặt”. Trên một căn bản đạo lý
lớn, là “luân lý xã hội” hay “ý thức công lợi” như Cụ Phan Châu
Trinh nói, thì các giá
trị từ tình cảm đến tự do mới có đất để nảy mầm và lớn dậy. Chừng nào mà sự gắn
kết mới chỉ dừng lại ở nhu cầu vị kỷ, cả vị kỷ vì tinh thần – không chịu nổi
nỗi cô đơn, thì khi đó cái “tình làng nghĩa xóm” của người Việt còn là một thứ
“văn minh” tiềm ẩn những nguy cơ chia rẽ, luôn luôn.
Trưởng thành, trước hết là một nghĩa vụ cá nhân đối với chính mình. Khi chưa có
được một nền tảng quản trị tiến bộ với tinh thần thượng tôn pháp luật thì mỗi
người phải dám sống cô đơn, dám đi một mình trên con đường không có tha nhân.
Lúc ấy, những năng lực ẩn tàng sẽ phát lộ, tình yêu con người vô tư và vô vị
lợi sẽ được khởi động, một lý tưởng lớn về nhân quần sẽ mọc ra.
Tiếng chửi là đại diện cho sự bất lực, tiếng cười là hình ảnh của nỗi tự an
ngụy tín, chúng đôi khi cũng cần được dùng đến trong những hoàn cảnh lịch
sử nhất định, nhưng nếu kéo dài và trở thành “chủ âm” của cả một cộng đồng
trong suốt hàng trăm năm thì khi đó, nó đã trở nên một thứ bệnh lý tinh thần.
Trong
ba “tiếng”, tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói, thì vế sau cùng phải là một
lựa chọn chủ đạo. Khi nào mà người ta lấy tiếng nói là trung tâm của đời sống,
để giao tiếp, đối thoại, tranh biện và tự vấn thì khi đó các giá trị mới sẽ có
cơ may được kiến tạo một cách có hệ thống.
Thái Hạo
No comments:
Post a Comment