Mùa này trời tối nhanh, Tết sắp đến, trên con đường làng vắng vẻ, hai
bên là những mái tranh nghèo xơ xác, thấp thoáng vài ngọn đèn dầu tù mù, nhìn
xa như những đốm ma trơi thoắt ẩn hiện sau những hàng rào tre, càng làm tăng
cái vẻ đìu hiu, quạnh quẽ. Ở đây, người dân lo ăn cơm cho nhanh trước khi mặt
trời đi ngủ để còn thấy đường dọn dẹp và rửa chén; hơn nữa là để tiết kiệm
nhiên liệu vì tiêu chuẩn mỗi gia đình một tháng, chỉ mua được 1 lít dầu hôi
thắp đèn.
Trong bóng đêm, hai bóng đen đang bước đều bên nhau, người cao lớn hơn
đang hăng say vừa vung tay vừa thuyết phục người kế bên làm một việc gì đó,
người kia vừa lắc đầu vừa thoái thác. Những căn nhà tranh đang nằm im lìm trong
đêm đen như không còn sức sống vì chẳng mấy nhà còn để đèn sáng. Chợt người nhỏ
con hơn lên tiếng:
- Tao
run quá mày ơi. Thôi tao về.
- ĐM,
sao mày nhát như thỏ đế. Muốn có tiền mà sợ.
- Từ
nhỏ tới lớn, tao chưa bao giờ làm chuyện này.
- Tao
làm chứ mày có làm đâu. Mày chỉ việc canh chừng bên ngoài thôi.
- Nhưng
tao là đồng lõa.
Nói xong, người kia quay đầu lại, dứt khoát bỏ về, để người cao lớn đứng
giữa con đường đất lẩm bẩm chửi thề trong miệng. Hắn ta tiếp tục bước đi trong
đêm đen, những bước chân nặng nề như tâm hồn của hắn.
Từ lúc bỏ lại thằng bạn một mình trên đường, thằng nhỏ con vội vàng quay
về túp lều tranh trên miếng đất rẫy, rất xa xóm làng, nơi người vợ yêu dấu và
đứa con trai mới chào đời được vài ngày. Lòng nó ngổn ngang bao suy nghĩ giằng
co. Những bước chân hoang mang bước xiêu vẹo ngang qua khu nghĩa trang của
làng. Bụng nó đói meo, cái bao tử cứ sôi lên òng ọc vì từ sáng đến giờ chỉ vài
miếng khoai mì luộc trong bụng, còn toàn nước và nước. Nó cứ lê những bước chân
vô hồn như thế đến trước căn chòi ọp ẹp lúc nào không hay.
Nó nhìn cánh cửa xiêu vẹo được làm tạm bợ bằng tre, rồi nhìn chung
quanh, những cây khoai mì mới cao đến thắt lưng, còn nhỏ lắm, chưa đến ngày
nhổ, mờ mờ ẩn hiện trên những vồng đất thẳng tắp. Tết sắp đến rồi mà giờ này
trong nhà nó không còn một chút gì để ăn. Nó không dám mơ đến một miếng thịt
hay một miếng mứt tết. Nó chỉ mong có thêm vài lít gạo trong nhà. Nó có thể cải
thiện bữa ăn bằng cách bắt rắn, thằn lằn, kỳ nhông hay bất cứ một con vật gì
sống trên rẫy; rau là những loại rau dại mọc khắp nơi và đọt giây khoai lang,
lá khoai mì mà nó trồng chung quanh nhà.
Nâng nhẹ cánh cửa, nó bước vào bên trong. Căn chòi chỉ độc nhất cái đèn
hột vịt còn leo lét chút ánh sáng sáng chập chờn trên cái bàn ở góc nhà, soi
lên vách cái ánh sáng vàng vọt. Vợ và đứa con sơ sinh đắp mền, đang say ngủ
trên cái chõng tre. Không một tiếng động, chỉ thỉnh thoảng tiếng cựa mình của
đứa bé kiếm đòi vú mẹ. Vợ nó đang kiệt sức lắm, sinh nở xong, không có cái gì
tẩm bổ, chỉ toàn sắn khoai, nên mệt mỏi, ngủ vùi như chết. Nhìn cảnh này, nó cố
nuốt ngược nỗi đau vào lòng, thẹn vì mình bất tài, hận vì chung quanh mình ai
cũng đói như nhau.
Nó nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh giường và đưa bàn tay chai sạm rờ vào đầu
tóc rối bù và khuôn mặt gầy gò của vợ. Nó cảm giác ướt dưới mấy ngón tay, hình
như vợ nó đang khóc trong giấc ngủ mỏi mệt. Vợ nó trở mình, qua ánh đèn vàng
vọt, nó vẫn thấy được những giọt lệ long lanh còn sót lại trong mắt nàng, đứa
con trong lòng chợt cựa quậy, khóc đòi bú. Thằng bé đang nhai vú mẹ cố tìm
những giọt sữa cuối cùng. Giọng vợ nó yếu ớt:
- Anh
về hồi nào?
- Về
nãy giờ rồi.
- Có
kiếm được cái gì không anh?
- Bữa
nay không ai dám đi nhổ trộm khoai mì nữa vì nghe đâu tụi du kích, công an nó
đi lùng dữ lắm. Anh tới nhà thằng bạn ngồi chơi hút vài điếu thuốc rồi về.
- Thôi
vậy cũng đành.
- Để
anh đi nấu cho em nồi cháo nóng, húp cho khỏe.
Tiếng lon sữa bò quẹt vào đáy cái hộp nhựa đựng gạo nhỏ xíu vang lên
trong đêm nghe não lòng như những tiếng thở dài hằng đêm của hai thân phận khốn
cùng. Vợ chồng nó đã kiếm hết cách rồi, từ đi rừng, bắt cua còng, làm thuê, mót
lúa, kể cả đi kéo xe cải tiến, chồng kéo, vợ đẩy cả xe củi, đổ mồ hôi sôi con
mắt. Không còn việc gì mà hai vợ chồng không làm. Sắp đến ngày sinh, vợ nó phải
nghỉ ở nhà, chỉ mình nó bương chải nhưng vẫn không đủ ăn. Vốn là thằng học trò
từ thành phố, đi kinh tế mới về vùng quê vài năm nay, nó đâu biết việc gì mà
làm.
Căn chòi hai vợ chồng đang ở là do mấy thằng bạn phụ một tay, cất tạm bợ
trên miếng đất rẫy của người bà con xa bên vợ, người ta thương tình cho nó vừa
ở vừa trông coi vườn khoai mì của họ. Thời buổi mà con người lúc nào cũng đói,
lúc nào cũng nghĩ đến ăn, làm sao để lấp đầy cái bụng; nhận thức không cao hơn
bao tử, cuộc sống không bằng một con vật nên hở cái gì là mất cái đó. Người
người ăn cắp lẫn nhau để sống còn.
Ăn cháo xong, vợ nó trở lại giường nằm bên con, nó cũng ra nằm trên
chiếc giường tre, gian bên ngoài. Cứ lăn qua trở lại cả đêm mà không sao nhắm
mắt được. Lúc vừa thiu thiu ngủ thì có tiếng đập cửa, một giọng nói cất lên:
- Công
an ấp. Mở cửa ra.
Nó vùng dậy, kéo chốt và nâng cánh cửa qua một bên. Một đám người võ
trang súng ống, đèn pin, rọi thẳng vô mặt nó. Vài ba cánh tay xúm lại trói quặt
hai cánh tay nó ra sau. Tên công an ấp nói to:
- Mày
bị bắt vì tội đồng lõa ăn cắp xe đạp.
Chưa kịp định thần thì đám người đã kéo nó đi ra khỏi căn chòi. Quay
lại, nó chỉ còn thấy mờ mờ bóng dáng vợ nó đứng vịn cửa nhìn theo, tiếng đứa
con trai khóc ngằn ngặt sau lưng. Đó là hình ảnh và âm thanh cuối cùng nó mang
theo trong những năm tháng tù đày.
Khi bị chuyển lên công an huyện hỏi cung, nó mới biết rằng, đêm hôm đó,
thằng bạn cao lớn đi chung với nó, ăn trộm một chiếc xe đạp, bị người ta phát
giác và đuổi theo, phang cho một đòn gánh té lăn xuống đường. Bị đánh đau quá,
hắn hèn nhát khai bậy ra nó là đồng lõa, mong người ta thương tình mà bớt đánh
đập. Ngay trong đêm, công an xã, ấp đến tận căn chòi bắt nó đi dù thật sự nó
không hề đi ăn trộm.
Sau một ngày bị hỏi cung, bị đánh bầm dập, dù không nhận, nó cũng bị bắt
ép phải ký giấy nhận tội, còn không thì bị tra tấn dã man. Nó bị tống vào một
phòng tạm giam ẩm ướt, hôi hám, nóng bức, nhung nhúc những người tù khác, đủ
thành phần. Nó nghĩ chắc đây là đoạn cuối của cuộc đời mình. Cánh cửa tương lai
đóng sập lại. Vợ con nó sẽ ra sao? Nó không dám nghĩ tới. Trời ơi là trời! Muốn
khóc mà không khóc được. Muốn gào to lên để trời cao đất thấp hiểu được nỗi
lòng nó.
Quá tuyệt vọng, nhìn quanh, nó thấy một chai cồn xức ghẻ của một bạn tù
vừa được người nhà thăm nuôi. Nó chộp lấy, mở nút chai, uống liền một hơi cạn
sạch. Nó lăn ra nền phòng giam, tay chân co giật, dãy dụa, đau đớn, la hét kinh
hoàng, mũi, miệng sùi bọt trắng, mắt trợn trừng như con chó ăn phải bã thuốc
độc. Có tiếng la kêu cứu, tiếng cửa phòng giam bật mở, người ta khiêng nó ra
ngoài và vất nó nằm cạnh phòng hỏi cung.
Người ta cậy miệng và đổ nước vào. Nó sặc sụa, vừa ho vừa khóc, nước mắt
lẫn nước bọt dàn dụa ướt cả khuôn mặt. Nó cảm thấy ruột gan bị thiêu đốt, như
đứt ra từng đoạn, đau đớn oằn oại; một cảm giác nóng kinh khủng chưa bao giờ nó
trải qua, vẫn cứ chạy rần rật toàn thân. Người ta để mặc cái thân hình gầy gò
của nó nằm rên la thê thảm như vậy cho đến lúc kiệt sức, nó chỉ còn thều thào
qua hơi thở yếu ớt. Bọt nước miếng vẫn tràn ra hai bên khóe mép như bọt xà
bông.
Nó ước ao, nó van lạy, nó cầu xin cho được chết ngay lập tức để khỏi
phải kéo dài cực hình khủng khiếp này, để nó không còn phải nghĩ đến tình cảnh
vợ con nó hiện giờ ra sao. Đầu óc nó mê đi, lẫn lộn mơ với thực. Những hình ảnh
hỗn độn, lần lượt lướt qua tâm thức nó trong im lặng sâu thẵm. Một tấm màn đen
sụp xuống. Nó chìm vào hôn mê.
Lúc mở mắt, nó thấy mình nằm ở góc phòng giam cũ. Tiếng ngáy đều của các
bạn tù lẫn tiếng ho khan của ai đó. Nó biết mình còn sống. Ruột gan nó vẫn còn
buốt rát như ai xát muối bên trong, tuy không còn nóng bỏng, nhưng nó thấy cồn
cào, nhộn nhạo như có ai vẫn đang cào cấu trong bao tử. Nó muốn ngồi dậy, nhưng
cơ thể không còn sức. Cuối cùng nó lấy hết sức bình sinh, chống hai tay ngồi
dựa vào tường, mắt nhắm nghiền.
Người ta đưa nó ra trại cưỡng bức lao động. Nó không biết tin tức gì của
vợ con và cũng chẳng ai đi thăm nuôi nó. Nó sống như một cái xác không hồn.
Ngày đi phá rừng làm rẫy, tối về nó không nói chuyện và không kết bạn với ai
cả. Người ta thấy nó hay ngổi nói lảm nhảm một mình, cặp mắt nhìn thẳng phía
trước nhưng không thấy ai. Được cái nó rất hiền lành, chẳng làm phiền ai; người
nào được thăm nuôi, cho nó miếng đường, cục kẹo, nó nhận và cười hiền lành nói
lời cám ơn.
Rồi hai năm trôi qua. Người ta kêu tên nó, đọc lệnh tha. Hờ hững cầm tờ
giấy, nó không vui mà cũng chẳng biểu lộ một nét gì trên khuôn mặt đã già đi
trước tuổi. Nó bước ra khỏi cổng trại, cái bị cói trên vai, ngơ ngác nhìn
quanh, đứng thẫn thờ suy nghĩ hồi lâu, rồi chậm rãi bước đi. Tiền không có để
đón xe, nó đi bộ.
Hai ngày sau, về đến làng cũ, nó đứng trước miếng đất rẫy ngày xưa, bây
giờ um tùm một màu xanh cây khoai mì và cây Điều, cặp mắt lạc thần ngơ ngác. Nó
không thấy nhà cũ, không thấy bóng dáng vợ con mình. Nó ngồi thụp xuống đất,
khóc nức nở, khuôn mặt nhòe đi, lấm lem vì nước mắt và bụi đường.
Dân làng dẫn nó đến trước một ngôi mộ đất không ai chăm sóc, mọc đầy cỏ
hoang. Người ta kể cho nó nghe, một người đi làm rẫy gần đó, nghe mùi hôi thúi
xông lên nặng nề, ông tìm đến căn chòi và thấy hai mẹ con chết nằm kề bên nhau,
đứa con trai vẫn còn ngậm vú mẹ. Người ta thương tình, bó chiếu, chôn hai mẹ
con cùng một huyệt mồ. Nó ngã vật xuống đất, ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh dậy,
cặp mắt nó khô queo, đỏ ngầu những đường gân máu. Nó không còn nước mắt để khóc
nữa.
Hôm sau, nó trở lại với một cái cuốc, một cây thánh giá nhỏ, và một bó
nhang. Khói hương nghi ngút bên nấm mộ đã được dọn dẹp sạch cỏ và vun đất ngay
ngắn. Nó ngồi kế bên, từ sáng cho đến tối mịt, mắt vẫn ráo hoảnh. Nó thì thầm
tâm sự, nó nói nhiều lắm, khi cười, khi nức nở, rồi nó nằm ôm ngôi mộ vào lòng.
Sau ngày đó, không một ai trong làng biết nó đi đâu và không một ai thấy nó trở
về thăm nấm mộ đất đìu hiu, giờ cỏ đã xanh rêu phủ đầy.
Nguyễn Văn Tới
1/2024
Trời cao có thấu cho những con người cùng khổ này chăng? Tại sao cái ác vẫn cứ tồn tại để người dân phải chịu thống khổ lầm than, thảm thương mãi như vậy. Công lý đâu, tình người đâu? Bởi vậy ai có khả năng cũng muốn tìm cách thoát khỏi thiên đường XHCN. Thương thay!
ReplyDeleteNPN
Mấy đời bánh đúc có xương, Mấy đời công sản mà thương dân lành...
ReplyDelete