(Ảnh minh họa)
“Sinh tử hữu mệnh, phú
quý tại Thiên”, nếu người xưa tin vào thiên mệnh thì người nay chỉ tin
vào khoa học. Nhưng chẳng phải vũ trụ bao la có bao điều huyền bí mà
khoa học vẫn chưa thể nhận thức được hay sao?
Thời cổ đại có rất nhiều cao
nhân có thể dựa vào toán quái mà dự đoán tương lai, coi tướng mặt mà
biết được họa phúc, xem phong thủy mà hiểu cát hung gia trạch. Trong cõi
vô hình đều đã có định số, sức vóc con người rất khó thay đổi được.
Sinh tử hữu mệnh
Người xưa nói: Mệnh là do Trời
chú định. Diêm Vương muốn canh 3 phải chết thì tuyệt đối không thể kéo
dài đến canh 5. Khi ấy, không chỉ thời gian đã được định trước mà ngay
cả phương thức cũng được định sẵn rồi.
Sách “Thái Bình Quảng Ký” chép rằng:
Thời nhà Đường có vị quan Thái
tử Thông sự Xá nhân tên là Vương Biêu. Ông Vương từng nói: “Những gì
gặp phải trong đời đều có liên hệ đến vận mệnh. Vận mệnh và sự nghiệp
đều đã định trước rồi, không phải cát thì là hung, khi nào đến cũng đã
chú định rồi”.
Vương Biêu nhắc lại câu chuyện
Võ Tắc Thiên tàn sát dòng dõi của hoàng đế, lúc ấy thế tử bị đưa đến
Đại Lý Tự phán tội chết. Thế tử than rằng: “Nếu ta không tránh được cái
chết, vậy cớ gì phải vấy bẩn gươm đao”. Nửa đêm, thế tử dùng cổ áo làm
dây treo cổ mà tự vẫn. Nhưng đến khi trời sáng thế tử chợt tỉnh dậy, lại
nói lại cười, lại ăn lại uống, giống như lúc còn ở hoàng cung vậy. Thế
tử kể lại: “Ta vừa chết thì quan âm phủ tức giận nói với ta rằng: ‘Ngươi
cần phải bị giết chết, sao lại dám tự tử? Mau mau trở về chịu hình
pháp!’. Ta bèn hỏi nguyên cớ tại sao, quan âm phủ liền lấy sổ sinh tử ra
đưa cho ta xem. Thì ra đời trước ta đã sát nhân hại mệnh nên đời này
phải báo ứng đền mạng”. Bởi thế tử đã hiểu rõ nhân quả báo ứng, thế nên
vào giờ phút hành hình sắc mặt vẫn điềm nhiên bình tĩnh, không hề sợ hãi
chút nào.
Con người đến cõi thế gian,
khi nào chào đời, khi nào về cát bụi, xem ra đã có định số sẵn rồi. Nhân
đời trước tạo quả đời này, hành thiện thì tích đức, làm ác thì tạo
nghiệp, không việc gì là không phải hoàn trả.
Phú quý tại Thiên
Sách “Năng Cải Trai Mạn Lục”
của Ngô Tăng triều Tống chép rằng: Một lần Tống Nhân Tông giá lâm cung
điện nghỉ mát, bỗng nghe thấy hai thị tòng đang tranh luận điều gì đó,
nói tới nói lui, vô cùng náo nhiệt. Thì ra hai người đang tranh cãi
chuyện sang hèn là do ai định ra. Giáp nói: “Sang hèn là do Trời chú
định”. Ất nói: “Sang hèn là do Hoàng đế quyết định”.
Nhân Tông nghe xong trầm ngâm
suy nghĩ một lúc lâu. Ông quyết định thử nghiệm một chút xem kết quả ra
sao. Thế là, ông lệnh cho hầu cận mang ra hai chiếc hộp vàng nhỏ, rồi bỏ
vào đó hai mẩu giấy giống hệt nhau. Trên hai mẩu giấy viết: “Người nào
đến chỗ khanh trước sẽ được trẫm ban cho chức quan Cấp sự, khanh hãy thi
ân cho người đó”. Nhân Tông cất vào hộp rồi niêm phong lại.
Sau đó Tống Nhân Tông lệnh cho
Ất (người nói sang hèn của là do hoàng đế quyết định) đem một chiếc hộp
đến Nội đông Môn ty (nơi sắp đặt chức quan). Tống Nhân Tông dự tính anh
ta đã đi được nửa đường rồi, lúc này mới lệnh cho Giáp (người nói sang
hèn là do Trời chú định) đem chiếc hộp còn lại đến Nội đông Môn ty.
Không lâu sau, Nội đông Môn ty
dâng tấu cho Giáp làm chức quan Cấp sự mà không dâng tấu cho Ất. Tống
Nhân Tông bất ngờ nhất thời không lý giải được. Thì ra Ất đi đến nửa
đường thì không may bị ngã, chân bị thương khá nặng. Vì vậy Giáp tuy
xuất phát sau nhưng lại đến đích trước. Hoàng đế cảm thán rằng, mệnh là
do Trời định vậy, cho dù thiên tử ngôi cao tột bậc cũng không thể nào
thay đổi được.
Đời người như vở kịch, trước khi sinh thì kịch bản đã được viết xong rồi
Sách “Thất Tu Loại Cảo”
có một đoạn ghi chép kể về thái sư Lưu Kiện thời nhà Minh. Khi Lưu Kiện
mới chào đời được hơn một tháng thì có vị tăng nhân hóa duyên đi qua
cổng nhà. Vừa trông thấy Lưu Kiện, vị tăng nhân đã tiên đoán rằng: “Đứa
bé này 7 lần chết mà không chết, qua 40 tuổi mới hết nạn tai, sau làm
quan đến nhất phẩm, thọ trên trăm tuổi”.
Quả nhiên, trước khi 40 tuổi
Lưu Kiện liên tiếp gặp kiếp nạn, nhưng lần nào cũng có Thần linh ngầm
bảo hộ, bảy lần thập tử nhất sinh, lần nào cũng thoát chết trong gang
tấc.
Lần thứ nhất là khi ông đọc
sách trong ngôi chùa cổ. Một buổi tối chớp lòe sấm động, mưa gió mịt mù,
bức tường ngôi chùa cổ đã nhiều năm không tu sửa đột nhiên đổ sập
xuống, vùi Lưu Kiện ở dưới, đến ngày hôm sau mới được cứu ra ngoài.
Lần thứ hai là khi ông vào
kinh dự thi, giữa đường gặp cướp. Sau khi đoạt lấy y phục của cải, toán
cướp trói ông lại rồi vùi vào trong tuyết, sau đó chúng nghênh ngang bỏ
đi. Đúng lúc Lưu Kiện sắp chết vì đói và rét thì được người đi đường cứu
thoát.
Lần thứ ba là khi ông tham gia
thi hội. Hôm ấy trường thi đột nhiên bốc lửa dữ dội, Lưu Kiện không có
đường thoát nên đành liều chết chạy xuyên qua ngọn lửa và may mắn thoát
thân.
Lần thứ tư là khi ông dự tiệc ở
nhà một người bạn. Gia chủ sợ khách về sớm bèn khóa cổng lại. Sau đó
không rõ nguyên do gì mà căn nhà cháy lớn, rất nhiều khách khứa đã mắc
kẹt trong biển lửa, duy có Lưu Kiện là giữ được tính mạng.
Lần thứ năm là khi ông mắc bệnh thương hàn nặng, hôn mê 3 ngày 3 đêm rồi bỗng nhiên tỉnh lại.
Lần thứ sáu là khi ông cùng
đoàn đi sứ. Giữa đường thuyền bị sóng đánh vỡ, Lưu Kiện ôm một miếng gỗ
trôi trên đại dương, mấy ngày sau mới được cứu.
Lần thứ bảy là khi đang ngủ
trưa, ông mở mắt thấy có con mèo ngay ở bên thân. Đúng lúc đó sấm chớp
chói loà, con mèo bị sét đánh, còn ông thì sợ quá ngất đi, mãi sau mới
tỉnh lại.
Bảy kiếp nạn này đều xảy ra
trước khi Lưu Kiện 40 tuổi. Sau này khi bắt đầu vững bước mây xanh, ông
ngày ngày thăng quan tiến tước, được Hoàng đế Hiếu Tông coi là cánh tay
phải của quốc gia, là trọng thần tâm phúc. Sau ông lại lên làm tể tướng,
chỉ ở dưới một người mà trên muôn vạn người.
Sau khi hoàng đế Võ Tông kế
vị, Lưu Kiện rời chức tể tướng, làm nguyên lão triều trước. Võ Tông ban
cho ông chức quan Thái sư. Khi sách “Thất Tu Loại Cảo” hoàn thành, Lưu thái sư vẫn còn mạnh khỏe, khi đó ông đã 107 tuổi rồi.
Đạo tặc cũng có số Trời
Theo sử sách “Thông Kỷ”,
vào năm Chính Thống thứ 14 triều Minh, tại Quảng Châu có một tướng cướp
tên là Hoàng Tiêu Dưỡng, bị giam ở nhà lao đã được 10 năm rồi.
Một hôm, chiếc chõng tre mà
Hoàng Tiêu Dưỡng vẫn thường ngủ bỗng mọc ra rất nhiều lá tre. Trong các
phạm nhân cùng đại lao có một người biết mệnh lý, nói với Hoàng Tiêu
Dưỡng rằng đây là điềm lành, rằng ông ta đã có thể trốn chạy. Hoàng Tiêu
Dưỡng vô cùng mừng rỡ liền đập vỡ hình cụ trên thân, len lén vượt ngục.
Sau khi ra khỏi ngục Hoàng Tiêu Dưỡng xuống biển làm hải tặc, số người
theo chân ông ta lên đến hơn 10 vạn người. Hoàng Tiêu Dưỡng bèn tiếm
hiệu xưng vương, cướp bóc tung hoành trên biển cả.
Đến tháng Hai năm Cảnh Thái
thứ nhất, triều đình lệnh cho đô đốc Đổng Hưng dẫn quân đi thảo phạt hải
tặc. Vào một đêm thượng tuần tháng Ba, có một mảnh sao chổi rơi xuống.
Khi đó trong đoàn quân có người am hiểu thiên văn thiên tượng tên là Mã
Thức, đã xem quẻ nói rằng: “Hiện nay là đầu tháng 3, đến tháng 4 thì có
thể bắt được tên hải tặc Hoàng Tiêu Dưỡng này”.
Quả nhiên đến tháng 4, quan
quân đã đại phá giặc cướp ở Đại Châu Đầu. Hoàng Tiêu Dưỡng bị loạn tên
bắn trúng, rồi bị quan quân bắt sống. Dư đảng của Hoàng Tiêu Dưỡng cũng
run sợ đầu hàng.
Một vị học giả họ Trần nhận
xét rằng: “Chõng làm bằng trúc khô mà mọc cành là điềm báo cái loạn Tiêu
Dưỡng. Sao chổi rơi là điềm báo cái chết của Tiêu Dưỡng. Vận mệnh của
đạo tặc cũng có số Trời, điều gì cũng được báo trước, mọi sự không phải
là ngẫu nhiên”.
Đạo nhân nhìn thấu cả cuộc đời
Thái Xác là đại thần triều Bắc
Tống, tên chữ là Trì Chính, là người Tấn Giang, ở Tuyền Châu (Trung
Quốc). Khi ông làm quan Phủ giới Đề cử, trong huyện có một người mộng
đến nha môn, trên điện đường xuất hiện bốn vị có thân phận cao quý, ai
ai cũng mặc quan phục có hoa văn rồng cuốn, đội mũ quan. Lúc này có
người nói với anh ta: “Đây là thứ tự chỗ ngồi của tể tướng triều Tống”.
Anh ta ngẩng đầu xem thì thấy
Thái Xác đang ngồi ở vị trí sau cùng. Nhưng Thái Xác lúc đó mới thăng
làm quan Phủ giới Đề cử, dẫu muốn thăng làm tể tướng cũng là chuyện viển
vông.
Ấy vậy mà Thái Xác đã thực sự
lên làm tể tướng. Sau này khi ông bị giáng chức đến Lĩnh Nam thì người
trong huyện mới bừng tỉnh ngộ: Thì ra Thái Xác chính là vị tể tướng thứ
tư bị giáng chức đày xuống Lĩnh Nam.
Tương truyền, khi Thái Xác còn
trẻ cũng từng mộng thấy một vị Tiên nhân đến nói rằng: khi cha làm
trạng nguyên thì ông sẽ làm chấp chính. Thái Xác tỉnh dậy cảm thấy thật
tức cười, bởi vì cha ông đã cao tuổi rồi, sao lại có thể làm trạng
nguyên đây? Sau này Thái Xác quả thực làm chấp chính, đúng ngày ấy Khoa
thi Kim Điện xướng danh, trạng nguyên quả thực chính là phụ thân của
Thái Xác, tên là Thái Hoàng Thường.
Thời trẻ Thái Xác từng đi du
ngoạn với một người bạn tên là Trương Trực, khi ấy gia cảnh của hai
người đều rất khốn khó. Một lần hai người gặp một Đạo nhân, vị Đạo nhân
nhìn chăm chú vào Thái Xác và nói: “Cậu rất giống Lý Đức Dụ”.
Lý Đức Dụ từng là tể tướng
triều Đường, sau bị lưu đày ở Hải Nam. Thái Xác cho rằng Đạo nhân trêu
đùa mình, bèn cười hỏi: “Vậy vãn bối sau này có thể làm tể tướng chứ?”.
Đạo nhân nói: “Làm được”.
Thái Xác cười lớn, rồi lại hỏi: “Vậy vãn bối cũng giống Lý Đức Dụ bị giáng chức lưu đày phương Nam chứ?”.
Đạo nhân nói: “Đúng thế”.
Đạo nhân lại nói với Trương
Thực đứng bên rằng, khi nhà anh có 50 nhân khẩu thì anh có thể làm quan
Khanh giám. Rồi Đạo nhân lại bảo với Thái Xác rằng: “Đó cũng là lúc thọ
mệnh của cậu kết thúc rồi”.
Thái Xác và Trương Thực đều cười ha hả, cho rằng đã gặp một kẻ khùng.
Sau này quả nhiên đúng như Đạo
nhân đã nói: Thái Xác làm tể tướng, rồi lại bị giáng chức xuống phương
Nam. 5 năm sau, một hôm ông nhận được thư của Trương Thực nói rằng ông
ta gần đây được thăng làm Tư nông khanh rồi, cả nhà 50 nhân khẩu ở kinh
thành sống rất khó khăn. Thái Xác mới nhớ tới những lời của Đạo nhân năm
xưa, chỉ có điều ông ‘chết’ là chưa ứng nghiệm. Mấy hôm sau, Thái Xác
bệnh cũ tái phát mà qua đời.
Có thể thấy, một đời người sớm
đã được an bài, không phải là điều con người có thể thao túng và làm
chủ. Nhưng khoa học hiện đại lại không chứng thực được những sự việc
thần kỳ này. Giống như loài kiến vĩnh viễn không thể nào chứng thực được
sự tồn tại của con người, khoa học của nhân loại cũng không thể nào
hiểu được bí ẩn của vũ trụ mênh mang.
Kiến Thiện
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
No comments:
Post a Comment