Thi rớt vào đại học,
tôi lấy chồng. Bởi làm thân con gái, trước sau gì cũng có chồng, tôi lấy chồng
cho rồi. Nếu là một tài tử điện ảnh, tiêu chuẩn kén chồng của tôi sẽ theo thứ
tự ưu tiên như sau: Thứ nhất, chàng phải đẹp trai (tôi luôn luôn mê kép đẹp).
Thứ nhì, chàng phải có học thức, và có địa vị cao trọng trong xã hội. Sau cùng,
chàng phải có nhiều tiền. Đó là câu trả lời cho câu hỏi: “Mẫu người đàn ông lý
tưởng của cô như thế nào?”
Nhưng thực tế, tôi chỉ
là một đứa con gái tầm thường, thi rớt lên rớt xuống. Nên chồng của tôi chỉ là
một Thiếu úy Pháo binh. Chàng là dân “đề lô”. Chàng của tôi không cao, không
thấp, không mâp, không ốm. Không xấu, không đẹp. Không nghèo hèn mà cũng chẳng
giàu sang. Nói tóm tắt, chàng là người trung bình về mọi phương diện.
Lấy chồng lúc 20 tuổi,
thuở đó tôi cứ tưởng mình đã đủ khôn lớn, để có chồng. Giờ đây, đôi lúc ngồi
tính sổ lại đoạn trường… hiến binh, tôi cứ tiếc cho tuổi trẻ, và cứ tự hỏi tại
sao tôi có thể lấy chồng ở cái tuổi “con nít trân” như vậy cho được chứ.
Tôi quen chàng sơ sơ
rồi lấy đại làm chồng. Tôi quyết định có hơi vội vàng, một phần cũng vì áp lực
của ông già, bà già dữ quá! Không phải ba má tôi muốn gã tôi cho chàng. Không, ổng bả muốn tôi lấy một người bạn của gia đình: “Chú Hùng”. Ông
chú này là bạn của Ba Má tôi. Tuổi của ổng không nhỏ hơn tuổi của Ba tôi bao
nhiêu. Được một cái chú Hùng có rất nhiều tiền. Chú lại là người có học thức
(nghe đâu cử nhân Luật gì đó). Chú lại có địa vị trong xã hội. Nhưng than ôi!
Cái tuổi trẻ khờ dại của tôi chỉ “yêu” được mấy chàng thanh niên trẻ tuổi, đẹp
trai. Còn tiền bạc, tôi chẳng màng, dù đôi khi tôi chẳng có một đồng xu dính
túi.
Cái số của tôi rất kỳ
cục. Nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao nó có thể ngộ nghĩnh đến như vậy được. Tôi
chưa từng thấy đứa bạn gái nào giống như tôi cả. Tôi thường được -hoặc là- mấy
đứa con nít nhỏ tuổi hơn mình chọc ghẹo, nếu không, thì cũng mấy ông xồn xồn
theo tán tỉnh. Điều này đôi lúc làm cho tôi tức tối ghê lắm. Hồi tôi học lớp 6,
lớp 7, chuyên môn bị mấy anh chàng lớp 11, lớp 12 ghé mắt xanh. Chừng tôi học
lớp 12, mấy đứa con nít lớp 9, lớp 10 gửi thư tình. Trong khi tôi phải lòng một
tên học trò cùng lớp, thì có ít nhứt hai ông già muốn hỏi cưới tôi làm vợ! Trời
đất! Thật là tréo ngoe, tréo cẳng ngỗng.
Chú Hùng là bạn của ba
tôi, mỗi khi chú đến nhà, tôi lễ phép vòng tay chào hỏi. Đôi lúc tôi rót nước
trà, có khi tôi mời chú một miếng mứt, miếng bánh tôi vừa mới học được của con
nhỏ bạn. Tôi nhiều chuyện kể chú Hùng về một bài thơ nào mà tôi thích, tôi hát
chú Hùng nghe một bài ca nào tôi yêu. Chú Hùng ăn bánh, ăn mứt của tôi làm. Chú
Hùng nghe tôi hát. Chú “mê” tôi hồi nào không ai hay. Tới chừng chú ngỏ ý muốn
cưới tôi làm vợ, cả nhà bật ngửa. Vậy mà Ba, Má tôi cũng chịu. Ba tôi nói, thời
buổi này tìm đâu ra được người đàng hoàng, tử tế như chú Hùng.
Tôi tức giận cho cái
số phận oái ăm của mình. Tôi muốn thách thức với ông tơ, bà nguyệt. Tôi bạo gan
cải số trời. Tôi lấy thiếu úy Trần, một người tôi vừa quen khi đi coi
phim “La fille de Ryan” (có Robert Mitchum đóng) chiếu ở Mini Rex. Chú Hùng
buồn bã, xin đổi về làm việc ở Cần Thơ, sau này chú Hùng lấy vợ. “Vợ chú không
trẻ hơn tôi mấy. Chú cưới về cho đỡ lạnh lùng.”
Đám cưới xong, chúng
tôi chưa kịp hưởng tuần trăng mật, trăng đường gì cả, chàng phải trở ra đơn vị,
bởi chàng là lính tác chiến. Một câu thơ nào đó của Hữu Loan muôn đời vẫn có ý
nghĩa cho nhiều cặp vợ chồng son trong thời chinh chiến. “Cưới nhau xong là
đi”.
Tiểu đoàn của chàng
đóng tại một địa danh nào đó bắt đầu bằng chữ “Lệ” ở tỉnh Pleiku. Chàng nói lúc
ông Diệm nắm chính quyền, Ngô tổng thống đưa dân miền Trung lên cao nguyên khai
hoang, lập ấp, lập Khu Dinh Điền, Khu Trù Mật. Bà Nhu đã mang chữ lót tên “Lệ”
của bà đặt cho nhiều nơi ở ngoài ấy. Lệ Trung, Lệ Thanh, Lệ Ngọc, Lệ Kim, Lệ
Minh… chàng nói lúc Dinh Độc Lập bị dội bom, một đứa con gái nhỏ của bà Nhu tử
nạn. Bà mang xác đứa con đó chôn tại một nơi mang tên người con vắn số của bà.
Tôi hỏi làm sao chàng biết. Chàng cười hì hì, nghe người ta kể như vậy.
Đơn vị chồng tôi đóng
quân tại một nơi đèo heo hút gió, nên chàng bỏ tôi ở lại Sàigòn. Thành ra, mang
tiếng có chồng, tôi vẫn phòng không gối chiếc. Thời giờ trống trải
chẳng biết làm gì, tôi đi học Anh văn ở trường Nguyễn Ngọc Linh. Hàng ngày tôi
thường mặc mini jupe thật ngắn, mang giày bata trắng, khi tan trường về, tôi ôm
cặp bước đi nhún nhảy như một con chim non. Má tôi quở, coi bộ tướng con Phương
Huệ, có chồng rồi cứ như con nít.
Khi tan học, tôi
thường ghé qua ăn bánh cuốn, bánh chả, uống đậu đỏ bánh lọt ở mấy xe bán thức
ăn dọc lề đường Trần Quý Cáp. Một hôm đang mút cà rem cây, tôi bắt gặp một
thằng nhỏ ngó mình lom lom, thằng bé này khoái tôi dữ. Tôi đi bộ, ôm cặp nhún
nhảy trên lề đường, nó dẫn xe đạp đi kè kè một bên mông.
Nó làm thinh đi theo tôi cho tới khi tôi về đến nhà. Đôi lúc nó láp giáp một
điều gì đó bên tai, tôi không trả lời và cố nín cười. Nó xưng tên Trí, học lớp
11 trường Pétrus Ký. Nó hỏi còn Huệ, lớp mấy, trường nào. Chúa ơi! Sao nó biết
tôi tên Huệ. Cái kiểu nói chuyện xưng tên của nó nghe sao mà dễ thương, bé bỏng
hiền lành quá đỗi. Chắc nó tưởng tôi cũng cỡ lớp 10, lớp 11 là cùng chứ gì.
Thằng Trí bắt đầu gửi
thư tình. Tôi chìa bàn tay có đeo nhẫn nhận thư. Ngón tay tôi đeo nhẫn sờ sờ
vậy mà nó không chịu thấy. Mà sự đời có nhiều chuyện éo le. Thiếu khối gì người
có gia đình mà họ có bao giờ chịu đeo nhẫn cưới đâu. Trong khi mấy đứa con gái
độc thân, hàng trăm, hàng vạn đứa thích đeo nhẫn ở ngón áp út. Chiếc nhẫn ấy
thực sự chẳng nói lên một điều gì rõ ràng cả.
Thư tình của thằng Trí
mùi tận mạng. Chữ viết hoa hoè, hoa sói, bay nhảy như chim, như bướm. Lời lẽ
ướt nhẹp như văn chương Quỳnh Dao. Tôi kể cho chồng tôi biết, tôi gửi thư tình
của nó cho chàng xem đỡ buồn lúc hành quân. Tôi nghĩ
chàng sẽ không nghi ngờ… gì cái tiết trinh của tôi. Nhưng chàng viết thư trả
lời bảo dẹp cái vụ ấy đi, tội nghiệp thằng nhỏ.
Tình hình chiến sự trở
nên sôi động, Trần điện tín bảo tôi ra “ở” với chàng. Tinh thần chồng tôi có
hơi xuống thấp. Chàng cần một “người vợ” ở kề cận để chia sẻ mùi chiến
tranh. Nhưng khi có tôi ở một bên, chàng càng khó tính, khó lo liệu hơn nữa.
Vừa xuống phi trường
Cù Hanh, Pleiku thì cũng vừa có lệnh tạm ngưng các chuyến bay của hàng không
Việt Nam. Tôi đến với Trần khi đơn vị chàng bị vây tứ phía, suốt ngày ở dưới
hầm chờ pháo kích. Sau cùng, chàng liều mạng xách xe đưa tôi về thị xã Pleiku,
đúng lúc thành phố đang xôn xao di tản chiến thuật.
Thế là tôi và Trần
nhập vào đoàn người lội suối, băng rừng theo con lộ 7 kinh hoàng tìm đường
xuống Tuy Hòa. Khi không đang ở Sài Gòn yên lành, tôi bay ra thăm chàng, để
cùng chạy giặc. Thật là hết chỗ nói.
Chúng tôi về đến Sài
Gòn chưa đầy một tháng thì mấy “ổng” vào tới. Chàng bị “Giải Phóng” vào tù mút
chỉ. Tôi về sống với Ba, Má ở đường Lê Văn Duyệt, chờ ngày chàng trở lại.
Nhưng chàng không bao
giờ trở lại với người vợ bé bỏng, nhỏ nhen này. Lúc Trung Cộng tấn công sang
biên giới Bắc Viêt, chàng mất hẳn liên lạc với tôi từ đó.
Sau khi bị “đổi đời”
anh em chúng tôi xúm nhau về nhà cha mẹ ăn bám. Thời buổi khó khăn, tiền làm
không ra mà mấy anh, mấy chị tăng gia sản xuất dữ quá. Chỉ mới mấy năm mà Ba Má
tôi cháu ngoại, cháu nội lũ khũ. Lúc đầu còn cưng chiều, săn sóc, riết rồi chịu
hết nổi, ổng bả bỏ bò lăn bò lóc. Đồ đạc trong nhà bắt đầu đội nón ra đi. Chúng
không có chân, có cẳng mà đi ra thật lẹ. Nặng như cái tủ lạnh, mà nó cũng đi
cho được. Cái hôm biết Má tôi bán cái tủ lạnh, tôi buồn hết năm phút. Bởi vì
tôi luôn luôn uống cái gì cũng kiếm cho được nước đá bỏ vào. Trời Sài Gòn nóng
nực, uống nước đá lạnh thấy cũng khoẻ.
Cuối năm 1978, Ba Má tôi chịu đời không thấu, bán nhà về quê nội ở Cao Lãnh làm ruộng. Đành cam từ giã Sàigòn. Hôm Ba Má tôi về quê, hôm bán nhà ở cái xóm Lê Văn Duyệt - Trần Quý Cáp, tôi buồn muốn chết, mà khóc không nổi. Anh em tôi mạnh ai nấy lo. Tôi bám víu ở lại thành phố. Cuộc đời thả trôi từ đó. Tôi chẳng khác nào cánh lục bình, nước lớn trôi vào sông rạch, nước ròng trôi ra biển.
******
Tôi quen chị Năm Chà
khi đi cầm đồ ở nhà Dì Hai. “Năm Chà” vì chị đen như Chà Và. Lớn hơn tôi 6
tuổi, nhưng hai đứa tôi đi chơi với nhau như bạn bè. Sau này khi về ở chung,
đôi lúc tụi tôi gọi nhau mày tao nữa chứ.
Ở góc đường Phát Diệm
- Nguyễn Cư Trinh, có một con hẻm lớn, bà con bày hàng quán, buôn bán dọc theo
con hẻm. Lâu ngày trở thành một cái chợ, chợ Xả Rác. Tôi đi hỏi bà con từ đầu
hẻm tới cuối hẻm, không ai biết vì sao lại “Xả Rác”. Tới chừng đi hỏi chị Năm
Chà, bị bả làm cho một trận:
- Con nhỏ này ưa hỏi
lôi thôi, người ta gọi “Chợ Xả Rác”. Đi thắc mắc làm gì mấy cái tên gọi cho mất
thì giờ.
Bả làm một hơi, tôi
nín khe.
Đi sâu vào con hẻm
chợ, qua chừng một chục lần quẹo phải, hai chục lần quẹo trái thì tới nhà Dì
Hai. Nhà Dì Hai vách gạch, mái lợp tôn. Đứng bên ngoài ngó vào, có thể nghĩ chủ
nhân chẳng giàu có gì. Bước vào trong, căn nhà hơi tối, bày biện đơn sơ. Một
căn phòng rộng vừa là phòng ngủ của Dì Hai, vừa là phòng khách, một góc có để
bàn ăn và một cái bếp nấu ăn. Xéo góc trái là nhà tắm, cầu tiêu. Dì Hai có cho cất
thêm một cái gác lửng bằng ván để Dì lập bàn thờ Phật, bàn thờ tổ tiên.
Dì Hai sống bằng… viện
trợ Mỹ. Đứa con gái và hai thằng con trai của Dì đều ở Mỹ. Thành ra Dì Hai khoẻ
ru, lâu lâu đi lãnh quà ở Tân Sơn Nhứt một lần. Dì Hai cũng gần 60, nhưng da dẻ
hồng hào, tướng người mạnh dạn, Dì Hai làm việc loay hoay cả ngày; Dì quen hoạt
động, nên ở không hoài cũng thấy buồn. Sẳn có tiền dư chút đỉnh, Dì cầm đồ, cho
tiền góp và chơi hụi.
Dì Hai ăn trầu bỏm
bẽm, lúc Dì xỉa thuốc, có cảm tưởng như bà Túy Hoa đóng vai bà Hội
Đồng. Nhưng thực sự, Dì Hai hiền hơn nhiều. Đôi lúc dì ăn nói rổn rảng, lại có
khi nói dai nhách, nhưng bụng dạ Dì rất hiền, rất tốt. Dì ăn chay một tháng 8
ngày và thường nhờ chị Năm Chà chở Dì đi chùa. Thỉnh thoảng Dì cạo đầu trọc
lóc, tóc ra lún phún như tân binh ở quân trường.
Hằng lớn hơn tôi hai
tuổi, là cháu gọi Dì Hai bằng Dì. Có nhà có cửa đàng hoàng ở miệt Phú Lâm, xa
cảng miền Tây, nhưng thích đi hoang, bỏ nhà xuống ở với Dì Hai. Năm Chà thì lý
lịch không ai biết, (mà ai cắc cớ hỏi bả, lớ quớ bị xì-nẹc) cũng trôi sông lạc
chợ như tôi, tấp vào nhà Dì Hai tá túc.
Tôi đến nhà Dì Hai hỏi
tiền góp, con nhỏ Hằng và chị Năm Chà chịu tôi liền. Hai bà dẫn tôi ra quán chị
Thanh, ở đầu đường ăn hủ tiếu và uống cà phê đá. Năm Chà hút thuốc lá… như Mỹ.
Hai bà biết tôi lang thang… như đóa hoa lục bình, bèn rủ
rê về nhà Dì Hai ở cho có bạn, cho có bè, có lũ. Từ đó ba đứa tôi trở thành ba
con yêu - thường gọi đùa là yêu nữ - phá làng, phá xóm, quậy đục cái xóm chợ
nhỏ ở đường Nguyễn Cư Trinh - Phát Diệm.
Chị Năm Chà chuyên
nghề mánh mun. Lấy đồ người này, đem bán người khác ăn lời. Nhờ trời thương, bả
trúng mánh đều đều. Dẫn tôi đi ăn sáng, uống cà phê. Tôi mang
bịnh ghiền cà phê đá từ cái năm bả hên, tiền vô như nước, dẫn tôi và con nhỏ
Hằng đi quán lia chia. Cũng có khi bả gặp nhằm năm cùng, tháng tận. Áp phe cứ
trật vuột hoài, đói meo, tụi tôi phải “hỏi vay” Dì Hai xài đỡ. Ăn trước trả
sau, vốn là sự thường tình của ba con yêu nữ nhà này.
Hằng đã ngoài 30 tuổi,
mà sắc đẹp vẫn còn mặn mà như con gái. Mới nhìn thoáng qua cứ tưởng bả là Trang
Bích Liễu. Có nhiều bữa bả ngắm nghía, săm soi trong gương, bả nhìn nghiêng qua
bên trái rồi lại nghiêng qua bên phải. Rồi bả chạy đến chiếc gương lớn ở tủ
kính, cầm chiếc gương nhỏ để một bên, nhìn vào gương lớn xem ảnh nhìn ngang của
bả ra sao… Con nhỏ Hằng than van, phải chi sóng mũi của mình cao hơn một chút,
mình sẽ đẹp như… Phương Hồng Ngọc… Tôi thiệt là chán chê cho cái cảnh già mà
còn làm điệu của bả, tôi nói đẹp cỡ như bồ… ra đường thiếu gì đàn ông dòm ngó.
Tại bà chẳng chịu đá lông nheo với ai đó thôi! Bả cười khoái chí khi nghe tôi
khen bả đẹp.
Con nhỏ Hằng không
biết buôn bán, mánh mun, chợ trời, chợ đất gì cả. Nhưng bả có tài nịnh, bả gọi
Dì Hai bằng Má… nghe ngọt còn hơn đường phèn. Nhiệm vụ của nó là đi thâu tiền
hụi, tiền góp cho Dì Hai. Thường thường nó ưa mượn và không hề nhắc. Khi nào có
thì trả lại cho Má Hai ăn trầu. Dì Hai cho tiền góp, một trăm ngàn góp thành
trăm mốt. Mỗi tháng góp mười ngàn, góp 11 tháng thì dứt. Dì quen gọi tiền
theo... chế độ tiền cũ. Một trăm ngàn của Dì tương đương với hai trăm đồng tiền
Bác Hồ. Lối cho vay của Dì thấy cũng ham, nhưng tính kỹ ra... lỗ quá trời. Một
trăm ngàn của Dì, lúc cho vay, mua được một chỉ vàng. Chừng thâu xong cả vốn
lẫn lời, mua được chừng sáu, bảy phân là cùng. Nhưng ai trong nhà đừng có tài
lanh giảng nghĩa cho Dì biết. Ba cái từ “leo thang”, “lạm phát” thiệt là rắc
rối. Tính đơn giản như dì, một trăm ngàn bỏ ra, thâu vào trăm mốt là được quá
rồi chớ gì.Dì Hai lại tu hành ăn chay nằm đất, giúp đỡ cho bà con lối xóm mà
tính quá vậy con. Trời đâu có cho. Sống như Má Hai, tà tà... không sức mà ăn.
Dì Hai nói cũng phải, tính toán quá làm gì. Còn tôi, miệng nói tôi thì giỏi,
nhưng tôi có làm ra được đồng ten, cắc bạc nào đâu.
*****
Tôi không có tài cán
gì cả, nhờ “có duyên” chút đỉnh nên thường được đàn ông bảo bọc. Hằng làm mai
“anh Chiến” cho tôi. Gặp nhau ảnh chịu tôi liền. Tôi còn hơi dụ dự vì nghi ông
này đã có vợ. Chị Năm Chà và con Hằng xúi tôi “chịu đại”, bắt địa xài đỡ. Có ai
biểu bà làm hôn thú đâu mà ngại. Anh Chiến cứ đến o bế tôi hoài, thằng chả tung
tiền thật nhiều, cố tình mua tôi cho bằng được. (Sau này chả nói với Dì Hai,
thấy tôi đỏng đảnh khó ưa. Chả “cua” tôi cho thỏa lòng tự ái. Trời
ơi, nghe qua tôi nổi giận đùng đùng. Muốn bỏ chả cho chả thấy tôi cũng có lòng
tự ái như ai - nhưng dây nhợ dính líu tùm lum... lỡ rồi... gỡ làm sao cho ra).
Lúc đầu, tôi chỉ “bắt
địa” anh Chiến. Lâu ngày, xài tiền của ổng quen tay, tôi đâm ra ghiền tiền của
ổng, như người ta ghiền thuốc phiện. Thành ra, cứ dính líu hoài, già nhân ngãi
mà non vợ chồng.
Trên căn gác xép của
Dì Hai, một bên là bàn thờ Phật, bàn thờ ông Ngoại, bà Ngoại. Phía cửa sổ là
cái giường để tôi và Hằng ngủ chung. Năm Chà thì tình nguyện ngủ dưới ván. Nhứt
là từ khi có sự hiện diện của anh Chiến, chị Năm Chà chê cái giường của tôi đầy
mùi u ám, mùi tục lụy... bả không chịu nằm.
Tôi mua vải bông may
thành một tấm riđô để khi có ông bồ của tôi tới thăm, hai đứa tôi kéo màn hát
cải lương. Chàng đến bất thình lình, rảnh giờ nào tới giờ đó không có thời khóa biểu gì cả. Có hôm sáng tinh sương chả vác mặt mo đến gõ cửa,
nhỏ Hằng còn say ngủ, bị tống xuống nhà dưới, vừa đi vừa cằn nhằn, làm ăn gì
hừng sáng vậy cha nội.
Lúc đầu tôi có hơi
ngượng, nhứt là khi có sự hiện diên của Dì Hai ở nhà. Cái gì mà giữa trưa,
chúng tôi đang ngồi chơi vui vẻ, ổng từ đâu tới, dẫn tôi lên gác kéo ri-đô nói
chuyện tâm tình. Cái cảnh này diễn ra hoài, riết rồi nhàm. Tôi chai đá, coi như
đó là một sự thường tình xã hội, chẳng có gì xấu phải mắc cở. Hằng, Năm Chà
riết rồi cũng coi như pha. Cả đến Dì Hai nữa trời ạ! Một hôm tôi và chàng ở
trong màn, Dì Hai đứng bên ngoài bảo làm giùm Dì một bài toán - đại khái tiền
lời, lỗ… con khỉ gì đó. Có lúc nhỏ Hằng cần tiền gấp, đứng bên ngoài hỏi tiền.
Nó tỉnh bơ đứng bên ngoài chờ đợi, tôi móc tiền vén màn đưa cho nó. Thật là
chẳng coi đạo đức ra gì cả. Ba con yêu nữ… xóm chợ nhỏ này.
Tôi đi lại với Chiến
khá lâu mà thật tình không thể nào yêu chàng nổi. Anh ta thuộc “tuýp” người tôi
thích: chàng là người rộng rãi, có lòng tốt với mọi người. Chiến chưa bao giờ
nói với tôi là chàng đã có gia đình hay chưa. Mà chàng cũng không hề hỏi cưới
tôi làm vợ. Nhưng tôi không mong đợi điều đó. Chàng hiền lành tử tế, nhưng dưới
mắt tôi, đôi lúc, cù lần quá. Chàng lại ăn mặc xuề xòa, đi dép lệt bệt. Tôi
muốn, bồ của tôi, lâu lâu cũng phải ăn diện một chút chớ. Nhất là khi đi phố Lê
Lợi, Nguyễn Huệ. Nhưng điều mà chàng làm tôi nản hơn hết là cái mùi… “mồ hôi”
của ổng. Có hôm trưa nắng, chàng đến người đầy mồ hôi nhễ nhại. Sờ vào thân
hình rin rít của chàng, tôi có cảm giác hơi gớm. Vì vậy tôi thường là người thụ
động, cứ để mặc chàng muốn làm gì thì làm.
Chiến thích được vuốt
ve, âu yếm. Tôi cũng thích được vuốt ve, âu yếm. Nhưng tôi không thích làm cái
chuyện đó với chàng. Chiến thích hôn môi, nhưng tôi cố tránh, vì không thích
mùi thuốc lá quá nặng. Răng của thằng chả cũng không được đẹp, đôi lúc dính
thịt gà, thịt vịt... thật khủng khiếp. Cho nên tôi luôn xoay mặt tránh chỗ
khác. Chàng có hơi bực với thái độ hờ hững này…
Một hôm, trong lúc
đang ăn ổi với Hằng và Dì Hai thì chàng đến. Ổng lôi tôi lên giường, tôi để mặc
chả muốn làm gì thì làm còn tôi tiếp tục ăn ổi. Hôm đó chắc bị bà xã xì-nẹc sao
đó, ổng nổi sùng cầm trái ổi tôi đang ăn vụt mạnh xuống sàn đụng đồ kêu rổn
rảng. Dì Hai ở nhà dưới quở, cái gì vậy tụi bây. Chàng nói với tôi:
- Bà làm thiệt là
giống mấy em ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Tôi nổi nóng nói:
- Ông tới thiệt là bất
tử, bất thình lình, làm như tôi lúc nào cũng sẵn sàng ứng chiến trăm phần
trăm.
Chàng hầm hầm mặc quần
áo đứng dậy bỏ đi không nói một tiếng với Dì Hai. Tôi tiếc rẻ trái ổi đang ăn
dở dang.
Năm Chà trở về rủ
chúng tôi đi coi “Dưới Hai Màu Áo”, ba con yêu nữ thả bộ tà tà đến rạp Hưng
Đạo. Phương Hồng Quế hát mở màn, đẹp như hoa hậu. Con nhỏ Hằng khều tôi nói
nhỏ, ê Lệ Thu đi nữa rồi đó. Năm Chà nói thích Thanh Tuyền hát bài “Đất Đỏ Miền
Đông”. Tôi nói Lê Hành hát bài này hay hơn. Nhỏ Hằng nói riết rồi ca sĩ hay đi
ráo trọi. Hai bà xúm nhau hả họng cười khi Kim Cương, một cô gái bán hột vịt
lộn, được ăn mặc sang trọng, đi guốc cao gót té lên té xuống. Lúc đầu mới xem,
tôi cũng cười. Nhưng coi mãi đâm ra nhàm.Tôi rủ hai bà về nhà ngủ sướng hơn,
nhưng mấy bả đòi ở lại coi cho tới vãn. Tôi buồn bực bỏ ra đứng trước cửa rạp
hát ngó ông đi qua, bà đi lại.
Có một thanh niên đang
mua thuốc lá gần chỗ tôi đứng. Chàng nhìn tôi cười cầu tài và sau đó bước đến
hỏi có phải Phương Huệ, nhà ở chợ Xả Rác. Thật tình tôi không biết hắn là ai,
nhưng thấy hắn có vẻ dễ thương, nên đi bộ tà tà nói chuyện. Trên đường trở về,
nhà hắn ở gần tiệm cơm Thanh Sơn. Lúc đi ngang, hắn rủ tôi vào... chơi. Hai đứa
ngồi nói chuyện ở phòng khách, đèn chong mờ mờ không để đèn sáng. Hắn bắt đầu
đụng chạm, tay chân táy máy. Tôi cũng chịu đèn nên làm thinh. Sau đó hắn dẫn
tôi vào phòng tắm. Trời đất ơi! Phòng tắm chớ không phải phòng ngủ. Tôi ngoan
ngoãn đi theo như một người bị thôi miên. Khi hai đứa đang ôm nhau mùi mẫn thì
có tiếng gõ cửa giựt giọng:
“Anh Ba ơi! Mở cửa cho
em đi cầu một chút coi, quýnh quá rồi nè!”
Tôi cài nút áo và nói
hắn mở cửa cho thằng nhỏ vào kẻo nó “ể” trong quần. Hắn kéo màn tắm vào bảo tôi
đứng yên đừng thở mạnh.
Không biết thằng nhỏ
ăn cái giống gì mà tôi chịu đựng gần... bể cái lỗ mũi. Khi đã xả bầu tâm
sự, thì thằng bé bước lại gần hỏi anh làm gì trong này vậy anh Ba. Con nít
Sàigòn thiệt là khôn, nhứt là kể từ khi nó được giải phóng, phỏng dái.
Tôi về đến nhà thì bị
Năm Chà và con nhỏ Hằng xúm lại chửi rủa. Quỷ ơi! Bà đi đâu mất tiêu, mất dạng
vậy. Tôi chu cái miệng nói nhõng nhẽo:
- Dạ em bị một người
nam thôi miên dẫn em vô bụi rậm.
Tôi hỏi:
- Ê Hằng, bà có nhớ
thằng cha ngó bà cười lúc Thái Châu hát bài Lá Đỏ không?
Nhỏ Hằng chớp mắt lia
lịa:
- Đàn ông, con trai
ngó tôi cười mím chi cọp thiếu gì. Bà nói kiểu đó, ai mà nhớ cho ra.
Tôi nói tôi bị thằng
cha đó thôi miên, tôi đi theo hắn về nhà. Nhỏ Hằng tiên đoán, rồi chàng dẫn bà
vào phòng ngủ phải không? Tôi nói không phải phòng ngủ, phòng tắm. Năm Chà trợn
mắt:
- Ở trong nhà
tắm? Rồi bà đứng ngồi, nằm ở chỗ nào?
Tôi nói tỉnh queo, tôi
ngồi tựa lên lu nước. Năm Chà dang tay lên trời:
- Chúa ôi! Con nhỏ này
chết xuống mười tầng địa ngục.
Tôi chấp tay
nói:
- Mô Phật, khi em chết
em chỉ thích xuống địa ngục.
Ba con yêu nữ cười
vang vang rung rinh căn gác xép.
Chiến giận tôi vụ
“trái ổi” chàng không đến thăm. Cả tuần... cho tới khi tôi nằm nhà thương. Một
hôm người bần thần uể oải, tôi với tay lấy chai thuốc đau lưng nhức mỏi của Dì
Hai. Ngờ đâu chai thuốc đó kỵ đàn bà có thai. Mà tôi có bầu lúc nào tôi cũng
chẳng biết. Uống thuốc được một buổi thì tôi bị đau bụng dữ dội, sau đó ra
huyết phải vào nhà thương. Cô y tá nói với nhỏ Hằng, trễ chút nữa là trời cứu!
Năm Chà mặt mày buồn xo như nhà có đám ma.
Chiến hết giận đến
thăm tôi mang theo một bịch cam. Chàng nói lỡ rồi, phá làm chi. Tôi làm thinh
không giải thích. Mà có nói đâu ai hiểu cho tôi. Chính nhỏ Hằng và Dì Hai còn
tưởng là tôi cố tình tống khứ cái của nợ đó chứ. Chiến ra về nhét dưới gối năm
trăm. Tôi vẫn thường nhận tiền của chàng, nhưng lần này tôi thấy tủi thân. Tôi
ứa nước mắt, thương cho thân phận lục bình. Tôi đã quá bệ rạc. Bệ rạc thân xác
mà bệ rạc luôn cả linh hồn.
Tôi buồn muốn đi xem
bói. Tôi muốn hỏi thầy bói vì cớ gì mấy năm qua tôi đều gặp chuyện xui rủi,
chằng rây. Chiến đưa tôi đến nhà bà Tám ở đường Trần Bình Trọng – Bà Tám chuyên
coi chỉ tay, bói bài. Bà còn biết xem bốc dịch, đoán tử vi và lên đồng nữa chứ.
Bà thờ xác cô, xác cậu nào đó. Nghe nói nhập vào bà, tiên đoán mọi việc trúng phong
phóc.Dân chúng Sài Gòn đổ xô đến tìm bà Tám nhờ xem chuyện gia đạo, giải tai
nạn, giải xui... đông như kiến.
Nhà bà Tám thầy bói
thuộc loại xưa, cột bằng gỗ to tròn màu đen, mái lợp ngói âm dương. Trong nhà
hơi tối lại bày thêm bàn thờ tổ... nên trông có vẻ lạnh lùng ma quái. Bà Tám
dành một phòng riêng để tiếp khách.Căn phòng ngó ra sân vườn phía sau nhà. Tôi
thật kinh ngạc và không thể tưởng tượng nổi ở giữa Sài Gòn hoa lệ này lại có
một khu vườn với đầy đủ cây ăn trái như thế này.
Bà Tám khoảng 50 tuổi,
người trắng trẻo, bới tóc ăn trầu bỏm bẽm, nhìn qua có vẻ hơi quê mùa. Theo lệ
thường, các thầy hỏi người đi xem muốn xin quẻ gì, tình duyên, gia đạo, công
việc làm ăn hay là theo một việc rất thời sự... chuyện vượt biên. Đằng này bà
Tám không cần hỏi tôi muốn gì, vừa ngồi xuống ghế bà xem tướng của tôi liền.
Chiếc mũi tốt không lo nghèo, ngặt lỗ mũi hơi trống tiền vô nhiều mà ra cũng
lẹ. Cặp môi đầy đặn, người chân thật, chơi với bạn không lừa lọc, xảo trá.
Gương mặt phúc hậu, không sợ yểu mạng. Cuộc đời thường gặp nhiều may mắn, có
người tử tế giúp đỡ. (Nghe qua tôi cũng vững lòng. Ừa phải rồi, đời tôi có
nhiều lúc thật khổ, nhưng rồi đâu cũng qua, cũng êm xuôi). Bà Tám bảo tôi xoè
bàn tay cho bà xem, thấy không, bà la lớn, có rất nhiều đường may mắn. Bà bảo
tôi nắm bàn tay lại, đường tình duyên cũng lận đận, phải hai ba đời chồng.
(Trời đất ơi! Chi nhiều dữ vậy! Tôi có phải là đào hát Hồ Ly Vút đâu?) Bà thầy
bói thình lình bảo tôi đưa bàn chân cho bà xem, bà nói tôi có đường xuất ngoại.
Chắc chắn số tôi phải sống xa nhà. Ông bồ của tôi đưa tay che mặt, cười diễu
cợt. Tôi cũng không nhịn được cười vì có vẻ tiếu lâm khôi hài quá.
Bà Tám vói tay lấy bộ
bài trên bàn thờ tổ. Bộ bài ny-lông mới tinh. (Tôi thắc mắc, đồ của “Mỹ Ngụy” sao
còn tàn tích tới giờ này). Bà bảo tôi thầm khấn vái điều cầu nguyện. Tôi vái
ông thần, bà thần bài cào có linh thiêng ứng vào quẻ bài cho tôi biết chừng nào tôi trúng số cá cặp. Bà Tám bảo tôi xào bài và bắt
hai lá, tay mặt một lá, tay trái một lá. Tôi rút bài mà thầm van vái cho nhằm
lá ách chuồn. Giờ phút này tôi yêu tiền hơn bao giờ hết. Quẻ bài không xấu
không tốt. Tôi muốn biết khi nào tôi có tiền, bài lên toàn chuyện mà tôi không cần biết. Bà nói tôi có được một người đàn ông trẻ tuổi thương mến, si mê, theo
đuổi. Tôi sẽ bị một người đàn ông khác lường gạt (nếu đã bị rồi thì thôi). Tôi
nhìn Chiến, thằng chả nhăn mặt, trề môi ý chừng không phải tui đâu à nhe. Tôi
có số may mắn, có người âm theo độ mạng. Tôi suy nghĩ ai vậy ta, không lẽ ông
chồng của tôi. Trời ơi! Chàng đã chết thật rồi sao! Quẻ bài còn nói tôi bị
nhiều chuyện tai tiếng, xui rủi, nhưng không sao vì con ách bích chỉa mũi dùi
sang hướng khác.
Thằng con của bà thầy
bói bước vào nói:
- Má ơi có thím Năm
qua mượn đỡ một trăm, chừng tối chồng thím về sẽ trả lại.
Bà Tám bước ra ngoài
tiếp khách, con trai bà Tám khoảng hơn 20 ngoài. Tôi hỏi:
- Em có biết coi bói
không? Khi nãy má em nói con ách bích không chỉa thẳng ngay chị là sao, chị
không hiểu.
Thằng nhỏ cầm con bài
xoay ngược chiều, mũi nhọn chỉa thẳng vào con đầm cơ. Tôi à một tiếng, hỏi nó:
- Em cũng biết coi bói
nữa hả?
Nó nhún vai:
- Bả dạy em hoài để
mai sau có nghề kiếm cơm. Nhưng em ghét bói toán, đồng bóng lắm. Coi làm chi,
việc gì sẽ tới, biết trước tương lai, hồi hộp thấy bà.
Tôi nói:
- Sướng chưa! Thiên hạ
đem tiền tới cho má em nuôi em.
(Mà nó ăn nói như vậy
đó!)
Bà Tám trở vào móc 20
đồng cho thằng con, dặn nó đi chơi chiều nhớ về ăn cơm. Bà xếp bộ bài lại, để
ngay ngắn trên bàn thờ. Bà bảo tôi ra vườn hái một chiếc lá. Tôi thấy có hai
đóa hoa lài vừa hé nụ, ngắt đại vào cho bà xem. Bà Thầy Tám cầm đóa hoa đưa qua
đưa lại, ngắm nghía:
- Sướng chưa! Bảo đi
hái lá lại đi hái hoa. Cái này là rõ ràng tại cô. Số trời chạy đâu cho khỏi.
Màu trắng tượng trưng cho cung ly, mùa hè tới cô sẽ gặp người đàng hoàng, tử
tế, sẽ có đôi có cặp. Hai đóa hoa vừa chớm nở, thơm ngát, con nhà lành đó nghe.
Tôi rầu rĩ ngó ông bồ của tôi, định hỏi bà Thầy. Vậy chớ còn cái ông thần thừ
đó bỏ cho ai? Thằng chả mặt nhăn như khỉ vì ngồi chờ lâu quá.
Tôi cám ơn và hỏi tiền
quả bao nhiêu. Công coi chỉ tay, chỉ chân chẵn hai chục. Bói bài 20. Xem bốc
dịch 20. Bớt 10 đồng, lấy 50 thôi. Anh Chiến móc túi đưa tờ “Bác Hồ nhìn thẳng”
màu đỏ. Tôi bước ra ngoài nói:
- Bà Tám sống khoẻ ru.
Thời buổi này, biết được một thứ là sống nhàn hạ, đằng này bà Tám làm đủ thứ.
Bốc dịch, lên đồng, bói bài, xem chỉ tay rồi con xem chỉ bàn chân nữa chứ. Gì
chứ món này khỏi sợ ai cạnh tranh. Đi khắp Sài Gòn-Chợ Lớn, chưa có ai biết xem
chỉ bàn chân như bà.
Anh Chiến nói:
- Thiệt là tào lao ông
địa, vậy mà bà cũng tin. Hồi nãy tôi nghe bả nói mai mốt gì đó bà sẽ được con
trai nhà lành hỏi cưới, tôi nhịn cười muốn chết. Bà mà đi lấy chồng, tôi tình
nguyện dọn dẹp, rửa nhà, rửa chén ba ngày ba đêm.
Tôi cười hí hí nói:
- Ai mà biết được
chuyện ngày mai!
Năm Chà và con nhỏ
Hằng nghe tôi kể chuyện đi coi bói tụi nó cười muốn vỡ bụng. Tưởng sao hai bà
biểu tôi dẫn đi xem (mình ngu mà có đứa ngu hơn). Năm Chà khoái cái vụ xem chỉ
bàn chân, bả lo tu hành còn mơ chi ba cái vụ vượt biên, vượt biển. Ra xứ ngoài
biết có chùa mà đi lạy Phật không đây. Nhỏ Hằng thì khoái cái vụ bốc dịch. Nó
phân bì với tôi sao cái số của bà gặp hết người này tới gặp người khác. (Nó làm
như chuyện thiệt!) Tôi dặn nó khi nào bà Tám thầy bói bảo hái cái lá,
thì hái đóa hoa. Mà nhớ lựa hoa còn búp. Không chừng sẽ gặp con trai đồng
trinh.
Ba con yêu nữ lại cười
muốn vỡ nhà.
Mấy tuần sau chúng tôi
trở lại nhà bà Tám thầy bói để cho Năm Chà và Hằng “thoả mãn” vì nó cứ rủ rê,
rù rì một bên tai. Hèn gì nhà bà Tám lúc nào cũng đông... khách thập phương.
Rủi thay hôm đó, bà
không có nhà. Chỉ có thằng con lớn đang đứng nấu cơm, kho cá. Thằng nhỏ cũng
bặt thiệp dữ, xưng tên Danh và mời mấy chị ngồi chơi, chờ Má em, chắc cũng gần
về rồi đó. Tôi không chịu ngồi một chỗ mà đi vòng quanh xem cái này, ngó cái
kia. Tôi bước lại gần xem thằng Danh làm bếp. Chà, nấu canh chua cá lóc ngon dữ.
Nó biết lấy trứng cá cá lóc để vào chén, dầm cho nát ra rồi bỏ vào nồi, nổi lên
mặt vàng óng... thấy thèm. Tôi đứng gần, chắc lưỡi hít hà:
- Con trai mà giỏi quá
vầy nè. Mai mốt đố khỏi làm mọi cho vợ.
Thằng nhỏ chẳng vừa,
đáp lễ:
- Vợ mình mình làm
mọi, chớ có làm mọi vợ ai đâu mà sợ.
Năm Chà và con Hằng
cười rúc rích. Hai bả đang lấy bộ bài của bà Tám binh xập xám.
Thằng Danh hỏi tôi:
- Cái anh hôm trước
đâu sao không thấy? Có phải chị là vợ của ảnh?
Tôi nói:
- Phải, nhưng chị chỉ
làm vợ thuê, vợ tháng mà thôi.
Thằng nhỏ có vẻ không
hiểu rõ. Tôi nói thêm, nghĩa là ảnh bỏ tiền ra thuê chị làm vợ, giống như người
ta thuê người làm vậy đó. Nhỏ Hằng nghe vậy nói:
- Vừa phải thôi chứ
bà, lên đây binh xập xám nè.
Thằng Danh nghe vậy
lật đật chạy lên phòng riêng của Má nó, mặt mày xanh lét:
- Trời đất ơi! bộ bài
của má em để dành coi bói. Bả về thấy được chửi ba ngày chưa dứt.
Năm Chà lẹ tay xếp gọn
để vào chỗ cũ. Tôi đùa dai, làm bộ đến chấp tay xá xá, nói xin ông thần bài cào
tha tội cho ba con yêu nữ này. Thằng Danh hỏi tôi sao gọi yêu nữ. Tôi nói với
nó, một cách rất nghiêm trang:
- Yêu nữ nghĩa là
người nữ rất đáng yêu.
Ngồi chờ bà Tám từ lúc
thằng con trai bà nấu cơm.. cho tới khi cơm chín, cá kho canh chua bay mùi thơm
phức mà bà cũng chưa về. Thằng con trai cũng bặt thiệp, sẵn bữa mời ba chị dùng
cơm nhà nghèo với tụi em. Ba chị chỉ chờ có thế, nhào vào ăn liền một cách rất
tự nhiên. Nhỏ Hằng nói: - Mình đi ăn chực, ngon thì thôi!
Cơm nước no nê, Năm
Chà bắt đầu thèm thuốc lá. Bả ngó tới gói Samit để trên bàn thờ tổ lom lom,
nhưng còn kiêng dè sợ phạm thánh. Tôi thì thèm cà phê đá, rủ mấy bả đi về cho
rồi, bữa khác trở lại coi bói. Thằng Danh ham vui, đòi đi theo, nó nói em cũng
ghiền cà phê đá nhứt nhà.
*******
Một buổi sáng Chiến
xách xe Honda rủ đi Vũng Tàu. Tôi bỏ hai bộ quần áo vào cái túi xách đi theo
chàng, không kịp cho Dì Hai biết tin.
Đến Cấp đã quá trưa,
chúng tôi ghé vào quán ăn cơm và sau đó tìm mướn khách sạn. Chiến uống bia
người mệt mỏi nằm ngủ say vùi. Tôi bỏ chàng nằm chèo queo trongphòng, xuống
biển tắm một mình. Khi trở về lại khách sạn, Chiến tỉnh giấc, chàng ôm tôi hôn
lấy hôn để và đòi làm tình. Tôi nói ông đi tắm rửa sạch sẽ tôi mới cho yêu.
Chàng ngoan ngoãn bước xuống giường đi vào phòng tắm.
Sau đó tôi và Chiến đi
ăn cơm tối, Chiến lại uống rượu. Tôi nói:
- Sao bữa nay ông hứng
uống dữ vậy?
Chàng nói:
- Buồn quá!
Chúng tôi trở về khách
sạn, chàng ôm ấp tôi một hồi mà không đủ sức làm tình, quay ra ngủ như chết.
Tôi buồn bã một mình lang thang về phía biển.
Tôi ngồi dưới gốc cây
ở vệ đường bãi trước ngó về phía ngoài khơi xa thẳm. Đêm không trăng, biển Vũng
Tàu tối âm u, gió từng cơn làm cho tôi thêm u buồn. Lần đầu tiên trong đời tôi
thấy cuộc sống của mình thật bấp bênh. Liên hệ với Chiến chẳng đem lại cho tôi
một chút an ủi nào. Đời sống của chàng và tôi càng ngày càng có nhiều trái
ngược. Nghĩ đến cảnh chàng đang nằm ngủ vùi trong phòng khách sạn, tôi thấy tôi
thật không hợp với chàng một chút nào cả.
Tôi định đứng lên bước
ra về thì bất chợt gặp Danh, thằng con trai bà Tám thầy bói. Vừa lúc nó gặp
tôi, nó mừng rỡ gọi chị Huệ, chị Huệ. Nó rủ tôi vô
một cái quán ở bãi trước ăn khô mực, uống la ve. Tôi nói:
- Em mà cũng uống la
ve nữa hả?
Nó than:
- Buồn quá!
Tôi nhớ lời Chiến than
hồi chiều: buồn quá! Danh hỏi tôi khi xa Vũng Tàu có buồn không? Tôi nói sống ở
một phố biển là điều tôi ước mơ. Nhưng Sài Gòn là nơi tôi có nhiều kỷ niệm
nhứt. Khi nào xa Sài Gòn, chắc tôi sẽ nhớ ngôi chợ Xả Rác đến ốm o gầy mòn. Danh
uống thêm một hớp rượu và than buồn quá. Tôi thấy nó hình như có một điều gì
muốn giấu diếm.
Trời đã khuya, bãi
biển bắt đầu vắng người. Tôi đứng dậy nói:
- Thôi về đi Danh ơi,
con nít uống rượu nhiều không tốt.
Danh hỏi:
- Chị ở đâu?
Tôi chỉ về khách sạn ở
phố ngang nhà lồng chợ. Danh nói:
- Em phải về Long Hải
ngay bây giờ, chắc thằng Trí và con Liên đang trông em dữ lắm.
Tôi hỏi:
- Tụi em làm gì ở bên
đó?
Thằng nhỏ nhìn tôi
buồn bã, giọng của nó còn buồn hơn:
- Chắc em không có dịp
gặp lại chị nữa đâu.
Tôi chợt hiểu, và một
nỗi buồn man mác chợt dấy lên trong lòng.
Danh dẫn tôi đến chỗ
nó gửi chiếc xe Honda. Thằng nhỏ nổ máy mà còn luyến tiếc chưa muốn đi. Tôi
nói:
- Chúc bình an.
Danh bỗng dưng rủ tôi
đi với nó về Long Hải và không hiểu sao, tôi leo lên yên sau ôm eo ếch nó cứng
ngắt. Thằng Danh phóng xe như bay trong đêm tối.
Đến Long Hải lúc gần
nửa đêm, trời tối đen, đâu đây tiếng chó sủa làm tôi rùng mình. Danh đưa tôi
đến nhà chủ ghe, nơi có 2 đứa em nó ở đó chờ từ mấy ngày nay. Vừa bước đến
cổng, tôi đã có linh cảm không ổn. Hai, ba tên phường đội cầm súng đứng phía
trước nhà. Danh khôn hồn nắm tay tôi vọt lẹ. Chừng một khoảng đường mấy trăm
thước, Danh lủi vào một căn nhà ở mé biển, tôi run sợ đứng khép nép ở ngoài
hiên.
Một người đàn bà bước
ra nói:
- Trời ơi! Danh mày đi
đâu mất tiêu vậy, tao tưởng mày dính rồi chớ. Thằng Danh hỏi:
- Hai đứa em tôi có
sao không bác Tư?
Người đàn bà nói nho
nhỏ:
- Không có sao, chẳng
có ai bị gì cả! Bà ta nhìn tôi có ý muốn hỏi chị này là ai đây. Tôi hiểu ý, mỉm
cười nói:
- Thiệt may quá.
Người đàn bà đó
dẫn tôi và Danh đi đến một cái chùa ở gần đó, bà ta nói: - Mầy ở tạm đây đi,
yên ổn hơn đằng nhà tao.
Tôi và thằng Danh được
đưa vào hậu liêu của một ngôi chùa lánh nạn. Đây cũng giống như nhà bếp, nhưng
có đặt thêm một chiếc đi-văng bằng gỗ, ở chính giữa nhà có đặt bàn
thờ Phật, góc trái có đặt bàn thờ ông Quan Thánh Đế Quân.
Chùa không có điện.
Một ngọn đèn dầu lù mù trên bàn Phật. Không có ai ở dưới hậu liêu này, bốn bề
im vắng thật dễ sợ. Tôi và Danh ngồi trốn ở một góc phòng, hồi hộp chờ đợi. Tôi
nghĩ chuyến đi đã bị bể, chủ ghe bị bắt và chẳng mấy chốc công an sẽ đến đây
tóm cổ cho mà xem. Nghĩ đến Chiến đang nằm chèo queo ở Cấp, bể chuyện ổng sẽ
chửi tôi thậm tệ. Thằng chả sẽ nói đáng kiếp cho đồ phản bội. Thật là oan ơi
ông Địa. Khi không vướng vào cái vụ kỳ cục này. Người ta đi vượt biên bị bắt đã
đành, còn tôi đi theo chơi bị bắt thiệt là hết chỗ nói.
Tôi kề tai Danh nói
nhỏ:
- Có sao không? chị
hồi hộp quá! Danh nắm tay tôi trấn an:
- Không sao đâu, số
của em may mắn lắm. Em có số vượt biên, má em coi ngày, coi tuổi cho mấy tụi em
rồi mới cho đi chớ.
Bàn tay Danh nắm tay
tôi một cách rất đàn ông. Nó nói:
- Chị có mệt, dựa lên
vai em mà nghỉ. Tôi tựa sát vào người nó, một hơi hướm đàn ông thật dễ chịu.
Thằng Danh không ngồi
im mà cựa quậy. Người nó ấm dần. Tôi nghe tiếng nó thở dồn dập một bên tai. Nó
bắt đầu đưa bờ môi mơn trớn vành tai của tôi. Tới chừng nó nhẹ đưa đầu lưỡi chạm
vào lỗ tai thì tôi chịu hết nổi. Tôi đẩy nó ra bảo:
- Đừng Danh!
Nó ngồi im được một
chút xíu rồi lại bắt đầu cái mửng cũ. Tôi xô nó ra nói: - Thôi mà, làm ở trong
chùa tội chết. Nhưng thằng nhỏ giờ phút này còn có biết gì nữa, công an nó còn
chưa sợ, sợ gì tội. Tôi ngó lên bức hình ông Quan Công trên bàn thờ, tôi nói:
- Coi chừng cái ông
cầm cây Thanh Long đao kìa.
Danh bước đến thổi tắt
phụt ngọn đèn dầu. Trong phòng bỗng tối mực. Danh đã cởi áo tự hồi nào. Nó kéo
tôi nằm ngữa ra nền xi-măng. Bóng tối như đêm làm cho dạn dĩ hơn, không còn mặc
cảm tội lỗi nữa, tôi ôm Danh với tất cả ham mê. Thằng nhỏ tuổi trẻ mà tài cao.
Nó làm tình như giông, như bão.
Tôi hối thằng Danh mặc
quần áo vào. Công an đến bắt tụi mình phạm hai tội một lượt. Nó ôm tôi hôn lên
gáy nói thương quá, thương quá, cử chỉ thật đàn ông.
Tôi nghe tiếng chân
người đi, trống ngực đánh thình thịch. Số tui xui lắm, rớ vô ông nào ông đó
thân bại danh liệt. Tôi chắc mẽm sẽ bị công an tới bắt dẫn về bót cho mà coi.
Cánh cửa phòng nhẹ mở,
một giọng nói nho nhỏ:
- Danh, Danh.
Thằng Danh đứng dậy
nắm tay tôi đi theo người đàn bà ban tối. Chúng tôi âm thầm đi với nhau trong
đêm len lỏi qua xóm nhà dân chài bờ biển Long Hải. Một chiếc ghe nhỏ đậu chờ
sẵn. Người đàn ông trên ghe nói với người đàn bà:
- Ba anh em thằng này
thôi phải không? Còn cô kia, đi cách nào vậy? Tôi bỗng cảm thấy thừa thải, trơ
trọi. Bị bỏ lại trong hoàn cảnh này hơi tủi thân dù ba cái chuyện đi đứng tôi
chưa bao giờ mong tới. Thằng Danh nói với tôi cứ nhẩy xuống ghe đại, không có
sao đâu. Ở đầu mũi chiếc ghe có úp một chiếc thúng rất lớn, Danh bảo tôi nhẩy
xuống ghe nằm trốn trong đó. Bỗng đâu có khoảng bảy, tám người từ trên bờ chạy
đến canh me. Người đàn ông la lối om sòm. Hắn chửi thề ỏm tỏi. Hắn dọa ra khơi
sẽ thảy xuống biển cho cá mập làm thịt. Thừa lúc lộn xộn thằng Danh thảy tôi
xuống ghe. Nó lấy cái thúng úp tôi lại. Tôi nằm im lặng, lâu lâu hé miệng thúng
để thở... chút không khí ngoài trời. Biển đêm tối như mực, tiếng ghe chạy êm ru
giữa vùng vắng lặng. Ghe chạy độ hơn một giờ thì đến điểm hẹn. Chiếc ghe lớn
đậu sẵn chờ rước khách. Tại đây, xảy ra một cảnh hỗn loạn hơn khi trước. Rất
đông người đi canh me. Họ chờ chực, canh từ ghe con qua ghe lớn. Thằng Danh lo
cho tôi và hai em nó chu toàn. Con tàu từ từ tiến vào biển Đông trong màn đêm.
Khi mặt trời lên cao,
tàu chúng tôi đến được hải phận quốc tế. Chiều tối hôm đó con tàu đi ngang Côn
Sơn. Thủy thủ cố tránh, lái thật xa. Danh chỉ tôi nhìn về phía trong kia xa
thẳm, nó nói Côn Sơn. Tôi chỉ thấy trời mây bát ngát.
Một tuần lễ sau tàu
chúng tôi đến được một chùm đảo nhỏ thuộc Nam Dương. Bước lên trại Kuku người
tôi còn say sóng đi đứng lạng quạng. Đầu óc cũng chưa tỉnh táo hẳn. Chẳng khác
nào một giấc chiêm bao. Mấy đêm liền tôi cứ mơ thấy về Việt Nam. Tôi thấy Dì
Hai, Năm Chà và con nhỏ Hằng. Trong giấc chiêm bao, tôi thấy như đang đi trong
chợ Xả Rác thân quen. Có lúc tôi thấy như đang về thăm nhà cha, mẹ ở Cao Lãnh.
Có khi tôi thấy bị công an Việt Cộng bắt. Tỉnh dậy tôi vẫn còn bàng hoàng, khi
thấy thằng Danh nằm ngủ cạnh một bên mới biết là mình đang ở Indonesia.
Thật là tức cười. Khi
không vượt biên. Nghĩ đến cảnh Chiến nằm ngủ một mình ở khách sạn, chàng sẽ
nghĩ gì về tôi. Tôi sẽ nói thế nào với con nhỏ Hằng và Năm Chà về cái vụ này.
Rời Việt Nam tôi để lại hai tháng hụi chết chưa đóng. Còn thiếu Dì Hai ba trăm
đồng. Ngoài ra còn tài khôn đi cầm dùm con Diễm chiếc nhẫn xoàn 4 ly. Đi Vũng
Tàu với Chiến, tự nhiên tôi mất tích. Chẳng ai biết sống chết ra sao. Chắc tụi
nó xúm lại làm thịt ông Chiến. Đâu có ai ngờ tôi đang ngồi rầu rĩ tại một hải
đảo xa xăm này đây.
Đảo Kuku có một trại
tạm trú cho phần đông người vượt biển đến được Nam Dương. Nơi đây chỉ là chỗ ở
tạm, nhà cửa ọp ẹp thô sơ. Chúng tôi chiếm một căn nhà nhỏ, gần bệnh xá. Mái
nhà lợp lá đã cũ, mục nát. Có nhiều đêm mưa to gió lớn, nước mưa rơi xuống mặt,
xuống chân lộp bộp. Chúng tôi xin được hai cái mùng cũ, tôi ngủ một mình, Danh
và hai em nó ngủ chung. Hai cái mùng giăng kề nhau trên một chiếc chõng làm
bằng những thanh cây nhỏ.
Thằng Danh nằm cạnh
tôi. Nó thường thò chân, thò tay qua chỗ tôi nằm. Tôi mang mặc cảm tội lỗi từ
cái đêm làm bậy, làm bạ ở trong chùa nên không muốn cảnh đó tái diễn.Để ngăn
ngừa, tôi cho phép thằng Danh mỗi lần chỉ được xâm phạm biên giới một món mà
thôi. Nếu cái đầu ló qua, thì bàn tay bàn chân phải ở vị trí cũ. Thường thường
thì Danh tôn trọng cam kết lúc đầu hôm. Tới chừng giữa khuya, khi hai em nó đã
ngủ mê, nó xé thỏa ước chun qua mùng tôi luôn. Và thường thì chừng đó tôi
đã hết mặc cảm tội lỗi, tôi phó mặc chuyện gì tới.. cứ việc tới. Trời lại mưa
gió ầm ỉ.. thằng Danh nằm trong mùng tôi cho tới sáng bét... mới chịu trở về.
Vậy mà hai đứa em nó cũng chẳng hay, chẳng biết.
Cái vụ này kéo dài
hoài không dứt được. Càng gần gũi, Danh càng mê, càng ghiền. Nó đang sức lớn,
khỏe như voi. Khi rời đảo Kuku, chuyển qua trại Galang, thằng Danh sắp xếp cho
tôi ở một góc kẹt của barrack. Dĩ nhiên nó cũng giăng mùng nằm kế cận.
Anh chàng đóng kịch
rất tài. Ban ngày nó xưng em và gọi tôi bằng chị. Tôi với nó cứ chị chị, em em
mà tối nào cũng ôm ấp yêu thương. Vướng vào cái vụ tình cảm này, tôi rầu ghê.
Tôi đã nói trước rồi, cuộc đời tôi luôn luôn gặp chuyện tréo cẳng ngỗng. Tiếu
lâm hơn nữa là Danh lại khoái làm lớn. Hằng đêm, ở trong mùng, nó gọi tôi là
cưng và xưng anh. Đối với nó, hễ làm đàn ông... là làm anh.
Tôi gửi thư về cho Dì
Hai, Năm Chà và con Hằng. Tôi chỉ nói đại khái tôi đã ra đi một cách rất tình
cờ. Nhưng tôi giấu, không cho biết đi với ai. Làm sao tôi có thể thú thiệt với
họ là tôi đi theo thằng con bà thầy bói đây hở trời! Tôi gửi lời thăm Chiến,
mong chàng sớm quên... một đoá hoa lục bình. Giờ đây đã ra biển lớn... trôi về
một phương trời xa thẳm. Tôi nhờ Năm Chà đóng dùm tôi 2 tháng hụi và lo tiền
chuộc chiếc cà rá cho con Diễm. Khi nào sang Mỹ, tôi sẽ gửi trả lại... có tiền
lời đầy đủ.
Lúc gần đi định cư tôi
nhận được thư nhỏ Hằng. Nó đại diện cả nhà, viết thư chúc mừng tôi... đã tới
được thiên đường.Mở đầu thư, nó sĩ vả tôi trước. Nó nói bạn bè thiệt là xấu, có
gì ngon giấu ăn một mình. Nó nói tôi tính vượt biên, sao không rủ rê bà con
với. Nó bảo ông Chiến rầu rĩ tới mấy tháng trời... ổng sợ bà nhẩy xuống biển tự
tử. Tới chừng được tin bà bình an ở xứ người, ổng than không dè bị bà đá đít.
Đau còn hơn bị thiên sắc thiến. Nhỏ Hằng nói cở này ông Chiến trúng áp phe
lia chia. Tiền vô như nước. Ngày nào ổng cũng xuống chở nó đi ăn nhậu. Nó còn
phán một câu, số bà thiệt xui, dính vô ông nào, ông đó mạt rệp. Coi nó ăn nói
như vậy đó. Nhỏ Hằng cho biết nó có trở lại nhà bà Tám xem bói. Nó nói cố làm
theo lời tôi dặn, lúc bà bảo nó ra vườn hái cái lá - nó cố tìm một đóa hoa còn búp - nhưng rủi hôm đó trong vườn chỉ còn mỗi một đoá
hoa đã nở rồi. Nó hái đại, có còn hơn không - hoa cũng còn sắc, còn mùi thơm.
Tôi nghĩ đến ông Chiến. Tôi chưa bao giờ mong đợi điều này. Nhưng biết đâu chừng
nó sẽ đến. Cái gì mà tôi không mong.. nó cũng đến. Sau cùng Năm Chà có vài lời
nhắn gửi, mừng cho tôi. Số bà coi vậy mà hên lắm đó nhe. Chị ta bảo tôi đừng lo
ba cái vụ nợ nần, tính xong rồi. Chỉ mong sang Mỹ đừng quên, lâu lâu gửi về một
thùng quà là được.
Đọc thư tôi thấy vui
vô cùng. Nhớ dễ sợ cái xóm nhỏ ở chợ Xả Rác. Tôi đi rồi, hai con yêu kia chắc
sẽ lo tu tỉnh làm ăn. Tôi thì kể như rồi đời, có muốn quậy cũng không được.
Tôi đã mang bầu hai
tháng. Lúc này phải mặc áo rộng để tránh sự tò mò của bà con trong trại ưa dòm
ngó. Danh khoái chí sắp lên chức. Buổi tối nó chun vô mùng tôi sớm hơn thường
lệ. Không còn đợi đến nửa đêm thanh vắng như trước. Nó làm cái điệu “cha của
đứa con tôi” không bằng.
Danh tuổi còn nhỏ,
nhưng tư cách rất đàn ông. Nó có nhiều điều rất hợp với tôi. Lâu dần tôi cảm
thấy... thương nó ghê. Nhất là kể từ khi tôi có bầu.
Tôi tựa đầu lên vai
Danh âu yếm:
- Nữa mình đặt con tên
Việt Nam hay tên Mỹ?
Nó mỉm cười hiền hỏi:
- Em muốn thế
nào?
Tôi hỏi nó:
- Có cho Ba Má bên nhà
hay chưa? Danh nhìn tôi cười:
- Chưa. Ai dám, biết
được ổng bả dủa chết.
Và chừng như sợ tôi
buồn, nó xoay ngang ôm tôi hôn. Danh luồn nhẹ bàn tay lên bụng tôi. Nó nói:
- Thương cục cưng này
lắm à nhe. Nó an ủi:
- Mà ổng bả biết cũng chẳng
có sao. Ở tuốt bên Việt Nam xa lắc làm gì được mình!
NGUYỄN THẠCH GIANG
Đọc câu chuyện này làm cho tôi nhớ lại cháu Diễm yêu chú Đạt (bạn của bố) trong cuốn tiểu thuyết YÊU nổi tiếng của Giáo Sư Chu Văn Bình với bút hiệu Chủ Tử.
ReplyDelete