Vậy là bốn mươi năm trôi qua. Bao nhiêu nước chảy qua cầu. Bao nhiêu người đã nằm xuống. Bao nhiêu đứa
trẻ được sinh ra. Cuộc sống vẫn tiếp diễn với bốn mùa xuân hạ thu đông. Hạnh
phúc hay bất hạnh của những cuộc đời cũng chẳng ai biết đến ngoài chính người
trong cuộc mới cảm nhận tường tận được sự mất mát hay những ân huệ mà đời sống
đã trao tặng cho họ. Và bốn mươi năm trôi qua vẫn có nhiều người, rất nhiều
người vẫn còn đứng phân vân giữa ngã ba đường. Không biết đi về đâu!
Bốn mươi năm trước, vào
những ngày cuối cùng của tháng Tư tôi là một người đàn bà rất trẻ đang sống ở
một nơi tận cùng đất nước. Thành phố nhỏ buồn có những cánh đồng bao la, hoang
vắng sau mùa gặt. Thành phố có khu chợ khá sầm uất và một con sông chảy ngang
qua.Tôi thỉnh thoảng đi đò để vào chợ, hồi đó có ông lái đò già bị bệnh
chân voi, hai chân to lớn dị kỳ sống bằng nghề đưa đón khách qua sông. Lâu lắm
rồi chắc ông ta đã chết.
Tôi đã có nhiều buổi chiều
cuối tháng Tư bồng con đi qua nhà người quen để hỏi thăm tin tức gia đình. Khi
đi ngang nhà Vĩnh Biệt của thành phố mùi hôi thối của những xác chết chưa kịp
chôn bốc lên nồng nặc. Sự biến động không ngừng của thời thế làm người ta quên
đi những người lính nằm trong nhà xác. Họ là những người lính cuối cùng ngã
xuống cho cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước khổ đau này.
Bốn mươi năm sau còn có ai
nhớ đến họ và biết rằng họ đã chiến đấu cho ai! Chiến đấu cho ai! Câu hỏi
đó biết đâu đã từng là nỗi ray rức, ám ảnh của những người đã chết và bị bỏ
quên trong ngôi nhà Vĩnh Biệt kia.
Chiếu đấu cho ai! Câu hỏi
đã được trả lời ngay sau tháng Tư Bảy Lăm khi những người lính của miền Nam
Việt Nam ngỡ ngàng buông súng. Tai họa lớn đã đến với dân tộc và quê hương ngay
sau đó.
Tôi đã có những giây phút
sống thoi thóp giữa biên giới sinh tử của con người. Trong căn hầm đơn sơ nhỏ
hẹp nghe tiếng đạn bay veo véo trên đầu, trong tiếng loa kêu gọi của hai bên
thù địch giữa đêm đen đầy đe dọa và bất trắc vì lưỡi hái tử thần có thể cướp
tính mạng con người bất cứ lúc nào. Bốn mươi năm qua, cứ mỗi lần tháng Tư trở
về điệp khúc cũ lại mồn một réo rắc bên tai tôi như một nỗi ám ánh kinh hoàng
không thể nào gột bỏ được. Tôi hiểu dù muốn dù không cũng phải chấp nhận nó như
một phần đời sống mình, như chứng tích cho một giai đoạn đau thương nhất của
quê hương. Tôi gọi nó là Điệp Khúc Tháng Tư.
Từ những ngày tháng Ba,
binh sĩ bắt đầu kéo về thật đông trong thị xã. Họ đến từ những thành phố phía
trên mang theo vợ con, nồi niêu, xoong chảo và cả gà vịt nữa. Họ tập trung
trong ngôi trường trung học sau tiểu khu, vui vẻ cười đùa và lũ trẻ chạy chơi
trước sân trường một cách vô tự. Sắp có đánh nhau lớn và mọi người đang chờ
đợi. Đài phát thanh và đài truyền hình loan tin về những thành phố miền Trung
và Cao Nguyên đã lọt vào tay cộng sản.
Tôi ở trong một tâm trạng
lo âu, sợ hãi khi nghe tin thành phố Dalat đã mất. Hàng ngày tôi bồng con đi
hỏi thăm tin tức của gia đình nhưng không nhận được một nguồn tin nào chính xác
cả. Tôi lo lắng cũng đúng thôi vì cha là công chức trong một nha sở trực thuộc
bộ Quốc Phòng và các anh em đều ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những điều
khủng khiếp đã xảy ra ở Huế hồi tết Mậu Thân làm tôi rùng mình khi nghĩ đến gia
đình.
Chồng tôi cho biết về tình
hình rất nghiêm trọng. Lệnh cấm trại đã được ban hành, anh chỉ về thăm nhà
trong những bữa ăn trưa và chiều rồi vội vã vào doanh trại. Chồng tôi làm ở
phía sau nhà bếp một căn hầm trú ẩn nhỏ bằng bao cát và dặn tôi nếu nghe tiếng
súng thì phải bồng con chạy vào đó trốn. Anh nói:
-Anh không thể lo cho em
được gì đâu vì lệnh cấm trại một trăm phần trăm trong Tiểu Khu. Em phải tự lo
lấy và hành động theo sự khôn ngoan của mình nếu có gì xảy ra ngoài này.
Một buổi chiều bỗng nhiên
súng nổ ầm ầm, tiếng đạn pháo kích bay reo réo trên khu gia binh, tôi hoảng hốt
chạy ra sân nghe ngóng. Đứa con gái khóc thét lên trong tay, chợt có tiếng la
to:
- Chết thật, chị vào nhà
ngay đi, chúng nó pháo kích mà chị ra ngoài sân làm gì kia chứ?
Đó là ông Đại úy Trung,
người hàng xóm của tôi. Ông ta ghé thăm nhà một chốc rồi lại phải vào
tiểu khu. Một lát sau chồng tôi về mặt mày nặng trình trịch vừa bước vào nhà đã
la lối om sòm:
-Tụi nó pháo kích rầm rầm
mà em bồng con chạy ra sân làm chi vậy, có chuyện gì cứ chui vào hầm trốn. Anh
không thể lo được cho em trong lúc này, nếu em khờ khạo như vậy làm sao anh yên
trí được.
-Tại em sợ quá, nên quên
mất cái hầm ở phía sau bếp.
Anh thở dài:
- Anh nghĩ tối nay sẽ có
chuyện lớn. Mấy tỉnh phía trên đã mất hết rồi nhưng Đại tá Chỉ huy Trưởng đã ra
lệnh tử thủ ở đây.
-Tối nay anh cũng vào tiểu
khu à?
-Dĩ nhiên rồi, anh ghé nhà
một chút thôi. Nghe ông Trung nói em bồng con chạy ra sân nhìn tụi nó pháo kích
làm anh giận run. Không phải chuyện đùa đâu, đây là chuyện chết người em hiểu
không?
Tôi vùng vằng:
-Hiểu rồi! ÔngTrung nhiều
chuyện quá, có như vậy mà cũng học đi, học lại!
Chồng tôi nghiêm mặt:
-Không phải là nhiều
chuyện, đó là vấn đề sanh tử em phải cảm ơn ông ta mới đúng. Em nghe rõ chưa?
-Nghe rõ, nghe rồi khổ lắm
nói mãi!
Anh dặn dò thêm nhiều lần
nữa, ăn uống qua loa rồi vội vã trở vào Tiểu Khu.
Trời vừa sập tối thì tiếng
loa phóng thanh từ tiểu khu bắt đầu cho phát lời tuyên bố của Đại Tá Chỉ Huy
Trưởng Tiểu Khu kiêm Tỉnh Trưởng An Xuyên ra lệnh cho tất cả sĩ quan và binh sĩ
phải ở trong tình trạng sẳn sàng chiến đấu và tử thủ. Giọng ông Đại Tá sang
sảng và hùng hồn như truyền được cái hào khí vào tâm hồn người nghe. Càng vào
đêm, giọng nói của ông càng dõng dạc, rõ ràng dù rằng đó chỉ là một lệnh truyền
được thâu băng và phát thanh lại nhiều lần.
Đạn pháo kích không biết
từ nơi đâu, từ phe bên nào bỗng nổi lên chát chúa trong đêm. Âm thanh trái pháo
bay ầm ầm trên mái nhà, xi măng, ngói vữa đổ xuống ào ào. Đứa con gái nhỏ đang
ngủ bỗng giật mình khóc ré lên, tôi bồng con chặt vào lòng trong nỗi kinh hoàng
tột độ. Bên nhà chị Hải lũ nhỏ cũng bắt đầu khóc la om sòm. Tôi chạy sân sau
gọi chị:
-Chị Hải ơi, em sợ quá! Có
gì vậy?
Chị Hải thì thầm:
-Việt cộng pháo kích đó,
cô đem cháu vào hầm trốn đi! Ông xã có nhà không?
-Trong tiểu khu, còn anh
Hải có tin gì không?
-Chưa, ổng đi vô quận cả
tuần nay rồi chẳng biết ra sao, Đại Tá ra lệnh tử thủ từ hồì chiều giờ, cô nghe
chứ?
-Dạ có, hồi chiều ông xã
em ghé nhà nói tình hình căng lắm chị ạ.
Chị Hải thở dài:
-Tôi lo cho ông Hải nhà
tôi quá cô ơi!
Tôi an ủi chị và chính
mình:
-Sống chết có số chị ạ.
Hai chị em đang nói chuyện
thì bỗng trong tiếng pháo nổ đạn rơi loa phóng thanh từ đâu đó vang lên giọng
nói của Mặt Trận Giải phóng Miền Nam (!). Họ lập đi lập lại nhiều lần:
-Yêu cầu phía Việt Nam
Cộng Hoà cử người vào mật khu để thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Chị Hải la lên:
-Chết rồi, họ đã tràn ra
thành phố!
Tôi chui vào hầm, đạn nổ
vang rền khắp nơi. Chưa bao giờ tôi thấy cô đơn và sợ hãi như đêm nay, vừa khóc
rấm rức vừa bắt đầu cầu nguyện các đấng thiêng liêng giúp cho qua cơn hoạn nạn
này. Khi tiếng súng đạn nguôi dần thì tiếng loa phóng thanh của hai bên lại bắt
đầu vang lên lồng lộng trong đêm. Một bên truyền lệnh tử thủ một bên kêu gọi
thương thảo.
Rồi pháo kích lại nổi lên
rầm rầm, con của tôi và đám con chị Hải lại khóc như gi vỡ tổ. Ôm con ngồi
trong hầm nghẹt thở quá phải chui ra ngoài, được một lúc súng đạn lại ì ầm nổi
lên càng lúc càng dữ dội khiến tôi phải vào lại trong hầm. Mạng sống con người
mong manh như chỉ mành treo chuông. Đến gần sáng tôi mới thiếp đi một chút vì
quá mỏi mệt, mặc cho súng đạn thét gào, mặc cho tiếng loa hai phe kêu gọi không
ngừng.
Sáng ra chồng tôi về nhà
một lát rồi phải đi ngay, anh cho hay phải theo Trung Tá Chỉ Huy Phó và phái đoàn
vào mật khu để thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.Tôi đứng ngồi không
yên vì tình huống vô cùng nguy hiểm này.
Đại Tướng Dương Văn Minh
đã kêu gọi đầu hàng. Thành phố cuối cùng không thể tử thủ được nữa. Binh Sĩ
buông súng. Giặc tràn vào Tiểu Khu treo cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đài
phát thanh Sàigòn mời Trịnh Công Sơn lên hát Nối Vòng Tay Lớn.
Qua khung cửa sổ, tôi thấy
Đại Úy Dũng và những nguời lính của ông ta ôm chầm lấy nhau trước sân, họ vừa
khóc vừa chửi thề:
-Tại sao hàng, có đánh
thua đâu mà hàng. Chúng tôi tức lắm Đại Úy à!
Nước mắt không phải là
biểu hiệu của sự ủy mị chỉ dành riêng cho đàn bà. Nước mắt của những người có
nghĩa khí đã rơi xuống cho đất nước. Họ khóc vì thấy mình bất lực không bảo vệ
được chính nghĩa mà từ bao lâu nay mình từng theo đuổi, ôm ấp.
Tôi hoảng hốt nhìn ra con
đường xuyên qua khu gia binh thì thấy cộng quân đã tràn ra như kiến. Không biết
từ đâu ra mà đông như thế. Họ mặc quần áo bằng vải dầu mầu rêu hay màu nâu. Đầu
đội mũ tai bèo, trang bị lựu đạn và súng ống khắp người. Đa số còn rất là trẻ với
màu da xám xịt và gương mặt hầm hầm sát khí. Lũ con nít trong khu gia binh la
lên inh ỏi:
-Việt cộng! Việt cộng!
Binh lính Việt Nam Cộng
Hòa đóng trong trường trung học gần đó cũng chạy ra ngơ ngác nhìn. Mọi người
không hiểu gì cả, cuộc diện thay đổi một cách lạ lùng và mau chóng quá vì đêm
hôm qua Đại Tá Chỉ Huy Trưởng còn ra lệnh tử thủ một cách cương quyết dù các
tỉnh phía trên đã mất. Còn phái đoàn theo Trung Tá vào mật khu số phận ra sao.
Còn Đại Tá đâu rồi.
Tôi bỗng thấy ông chồng
xuất hiện trên con đường về khu gia binh. Tôi mừng rỡ chạy ra đón nhưng vội
khựng lại vì thấy gương mặt anh rất khác lạ, màu da tái nhợt như một xác chết,
áo quần xốc xếch, lon lá trên cổ áo đã biến mất. Chị Hải chạy a tới hỏi dồn dập:
-Sao rồi?
Nhưng chị cũng khựng lại
khi nhìn sự thay đổi lạ lùng trên khuôn mặt anh ta. Chồng tôi bước vào nhà im
lặng ngồi xuống ghế, ánh mắt nhìn vào một thế giới nào đó, đầu rủ xuống già
nua, mệt mỏi. Tôi chưa bao giờ trông thấy chồng trong tình trạng suy sụp kinh
khủng này, tôi sợ sệt không dám nói gì cả. Chồng tôi rút trong người ra một
khẩu súng đen nhỏ xíu như một món đồ chơi của trẻ con. Tôi hoảng hốt la lên:
-Anh làm gì vậy?
Anh nhìn tôi bằng cái nhìn
đau đớn, xót xa mà chưa bao giờ tôi nhìn thấy trên gương mặt của một người đàn
ông. Rồi bất ngờ chồng tôi khóc nấc lên, tiếng khóc khô khốc, khó khăn nghe rờn
rợn lạ lùng làm sao, tuy nhiên như thế vẫn dễ chịu hơn là sự im lặng nặng nề từ
nãy đến giờ. Anh nói lập bập:
-Mất hết rồi, không còn gì
nữa cả. Tức lắm! Tức lắm!
Rồi chồng tôi lại gục
xuống. Tôi thở dài:
-Anh kể cho em nghe câu
chuyện đã xảy ra như thế nào đi. Trung Tá ra sao, còn Đại Tá đâu rồi khi họ
tràn vào Tiểu khu.
- Đại Tá Chỉ Huy Trưởng bỏ
đi rồi. Trung Tá Chỉ Huy Phó đã bị giặc bắt sống. Ông trao lại cho anh khẩu
súng này.
Câu chuyện khá dài dòng,
bi đát và qua lời kể của chồng, tôi thấy lòng cay đắng khi hiểu rằng những
người chân chính, ngay thẳng luôn luôn bị thiệt thòi. Tôi càng thấm thía về ý
nghĩa của câu “Nước loạn mới biết tôi trung”.
Mà thôi, khi một biến cố
xảy ra mỗi người sẽ có mỗi phản ứng khác nhau, xấu hay tốt đôi khi cũng khó phê
bình được. Qua nhiều năm sống trong nỗi đau thương cùng tận tôi bắt đầu học
được nhiều điều mà trước kia tôi chưa hề biết. Tôi cố gắng giữ cho mình một
chút bằng lòng chứ không phải tự hào: tôi cũng chịu đau khổ, đọa đầy như những
đồng bào miền Nam của tôi. Tôi chia sẻ với họ nỗi đau thương bởi tôi đã từng là
một người vợ lính với nhiều hệ luỵ khi nước mất, nhà tan.
Buổi tối anh em lính chiến
tụ họp trước cửa nhà tôi. Họ vừa đàn hát vừa nói chuyện tương lai, chuyện trở
về nhà. Họ hát bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí của Nhật Ngân, bài Nối Vòng Tay
Lớn của Trịnh Công Sơn rất nhiều lần, vì ban ngày Đài Phát Thanh Saigon đã mời
người nhạc sĩ họTrịnh lên hát bài này. Những người lính trò chuyện suốt đêm và
trong nhà vợ chồng tôi cũng không thể ngủ được vì cuộc diện thay đổi quá nhanh
chóng trong thành phố. Với đầu óc giản dị của một người đàn bà tôi nghĩ hai vợ
chồng sẽ trở về Đalat tìm một miếng đất nào đó trồng trọt, chăn nuôi và bắt đầu
cho một cuộc sống khác như ước mơ của những người lính đang bàn soạn ngoài kia.
Chồng tôi thì có vẻ lo lắng không nguôi với những ngày trước mặt.
Tôi rời thành phố trong
chuyến xe đò sớm, khi đi qua nhà Vĩnh Biệt mùi hôi thối của những xác chết chưa
kịp chôn vẫn bốc lên nồng nặc. Người ta quên đi những người lính nằm trong nhà
xác. Ôi! những người lính cuối cùng của cuộc chiến.
Tôi ngậm ngùi muốn khóc
khi giã từ thành phố bé nhỏ, xa xôi mà mình đã trú ngụ trong cuộc đời làm vợ
một người lính. Căn nhà trong khu gia binh mà tôi có nhiều ngày tháng
phải sống một mình vì chồng đi công tác liên miên. Khi đi qua cây cầu lớn với
giòng nước chảy cuồn cuộn dưới kia tôi tự hỏi có bao giờ mình sẽ trở lại đây
không. Cái thành phố hiu hắt cho tôi bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ trong bầu
không khí sôi sục, căng thẳng vì chiến tranh và chết chóc diễn ra từng ngày,
từng giờ. Người vợ lính nào cũng sẵn sàng để trở thành một người góa phụ. Bây
giờ cuộc chiến đã tàn mà sao lòng mình nặng trĩu âu lo. Trái tim đau đớn, xót
xa không sao kể xiết.
Về đến Saigòn, nhìn thành
phố tan tác, hoang mang vì kẻ ở người đi. Biến cố to tác đổ ập xuống đất nước
làm cho mọi người ngơ ngác như đang sống trong cơn mộng dữ giữ ban ngày. Chồng
tôi đi trình diện vì nghe họ nói chỉ học tập cải tạo một tháng thôi, đâu ai ngờ
mình bị họ lừa dối. Tôi đem con trở về gia đình trên Dalat sống một cuộc đời
với muôn ngàn khổ ải đau thương của vợ người tù cải tạo. Nỗi khốn khổ của những
kẻ ở lại có viết hàng ngàn trang giấy cũng không diễn tả được hết đâu. Đoạn
trường ai có qua cầu mới hay.
Những năm tháng sống trong
địa ngục trần gian lòng tôi vẫn nhớ về An Xuyên với những ngày cuối cùng tháng
Tư. Tôi hay nghĩ về vị Trung Tá Chỉ Huy Phó của tiểu khu, vị chỉ huy cao nhất
còn ở lại với thuộc cấp trong giờ phút hấp hối của An Xuyên và bị bắt sống.
Lòng kính phục của tôi đối với ông đã khiến tôi nhiều lần viết về ông, hội kiến
cùng ông trong những mẫu chuyện hư cấu cùng nhiều tâm sự xót xa, bẽ bàng của
những người bị ở lại trong cuộc dâu bể của quê hương thuở nọ. Không biết bây
giờ ông ở nơi đâu hay đã hóa ra người thiên cổ.
Và tôi cũng luôn nhớ đến
Thiếu Tá Phan Thành Hứa Tiểu Đoàn Trưởng tiển đoàn 446, người anh hùng cô đơn
thuở nọ. Ông vẫn chiến đấu can trường cho đến khi bị bắt và bị họ xử bắn tại Cà
Mau cùng với một số Sĩ Quan và Viên Chức Việt Nam Cộng Hòa một cách công khai.
Trước khi chết ông vẫn hô to đả đảo cộng sản nhiều lần. Đó là cuộc chiến đấu
lâu nhất trong lịch sử chiếu đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. An Xuyên là
thành phố sau cùng đã mất về tay cộng sản sau khi Đại Tướng Dương Văn Minh ra
lệnh đầu hàng.
Người ta nói có những câu
chuyện xưa quá rồi, nhắc lại có ích lợi gì đâu ngoài việc khơi thêm những thù
hận, oán hờn. Theo tôi có những câu chuyện không bao giờ xưa cũ đó là câu
chuyện thuộc về lịch sử. Lịch sử như một dòng sông chảy mãi không ngừng.
Sau ngày 30 tháng Tư năm
1975 quê hương miền Nam rơi vào thảm nạn quá lớn lao và dấu vết nhem nhuốc trong
lịch sử dân tộc biết bao giờ xóa mờ được. Đau thương, oán hờn, đói nghèo, chết
chóc bao trùm trên số phận những người dân Việt Nam. Triệu người buồn đã đành,
còn triệu người vui cũng chẳng vui được bao lâu khi biết mình bị lừa dối. Chỉ
có những con ma cà rồng no đủ, thỏa thuê vì hút máu dân tộc mới thực sự hạnh
phúc trong men chiến thắng.
Chiến thắng hay chiến bại
đôi khi cũng khó mà luận bàn vì kẻ chiến thắng bây giờ trở thành tên xin xỏ và
kẻ chiến bại trở nên người ban phát. Lại cũng có khi kẻ chiến thắng muốn nhập
vai làm người thua trận để hưởng chút lợi lộc thế gian. Lại cũng có kẻ dựa hơi
người ra đi để củng cố quyền lợi của cha ông mình. Âu đó cũng là định luật bù
trừ của đời sống muôn mặt này.
Bây giờ có lẽ mọi người đã
hiểu những người lính Việt Nam Cộng Hòa chiếu đấu cho ai, vì ai. Dù họ hiểu
trong muộn màng vẫn còn hơn là chưa từng hiểu. Chỉ trách cho những kẻ đã từng
biết thế nào là tủi nhục, đau thương mà đã vội vàng quên hay vô tư thỏa hiệp
với cái ác để mưu cầu hạnh phúc hay lợi lộc riêng tư.
Bốn mươi năm qua, điệp
khúc réo gọi của hai phe thù nghịch trong một đêm đen cuối tháng Tư vẫn mồn một
trở về cùng tiếng súng nổ, đạn rơi. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dù sao vẫn còn
tồn tại trong lòng người dân, vẫn còn tiếng nói trên khắp thế giới nơi có người
Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản. Còn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (!)thì đã bị chôn
sống và khai tử từ lâu lắm rồi! Họ đã chết non. Họ thật sự không hiện hữu trong
Điệp Khúc Tháng Tư ngày nọ. Vì thật ra Miền Nam không cần ai giải phóng.
Còn những người đang đứng
giữa ngã ba đường. Sau bốn mươi năm với bao nỗi uất nghẹn, trăn trở của cả dân
tộc mà cũng chẳng biết mình phải về đâu hay sao?
Tôi hài lòng vì đang sống
và viết trên nước Mỹ, một xứ sở tự do, dân chủ và giàu mạnh nhất thế giới.Tôi
thuộc về gia đình của những người thua trận và tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ
vì điều đó nếu không muốn nói là còn cảm thấy hãnh diện và tự hào. Tôi xin cảm
ơn cuộc đời đã cho tôi một đời sống khá ấm no, hạnh phúc trên nước Mỹ sau quá
nhiều trắc trở gian nan. Nói như thế không có nghĩa là tôi đã cảm ơn những kẻ
đã xô đẩy chúng tôi ra khỏi quê hương mình.
Tôi không bao giờ cảm ơn
một người đã đập đầu tôi lên đá, dù sau cú đập đó tôi bắt gặp một viên kim
cương. Hành động tàn ác và luật bù trừ của cuộc đời là hai việc hoàn toàn khác
hẳn nhau. Con dao phẫu thuật của một vị bác sĩ trên thân thể bệnh nhân hoàn
toàn khác xa với con dao đâm vào bụng người của kẻ ăn cướp.
Và tôi đã có những đêm
không ngủ khi ký ức tháng Tư hiện về như một ám ảnh khôn nguôi. Tôi gói trọn tâm
sự mình vào bài thơ:
Trắng đêm
Nằm im
trong tiếng đời cười
Ta nghe
máu chảy biếng lười trong thân
Nằm
nghe tàn cuộc trăm năm
Nằm
nghe da xếp vết nhăn mặt người
Nằm
thương nhớ tuổi đôi mươi
Gõ tay
vào mộng réo người buổi xưa
Ngậm
ngùi bao cuộc tiễn đưa
Hai bàn
tay đếm chẳng vừa năm đi
Nằm
khơi oan trái vô nghì
Sục sôi
hận buổi phân kỳ đã qua
Nộ
cuồng gió hú đỉnh xa
Đau
muôn mạch nhựa khóc òa trong cây
Sầu đêm
bạc sợi tóc gầy
Con ong
xứ lạ gọi bầy bơ vơ
Nằm đây
mắt trắng bơ phờ
Thèm
sao giấc ngủ bên bờ an nhiên!
Mimosa Phương
Vinh
Mỗi người một cảnh, chắc chắn người Việt Nam chúng ta ai cũng có một ký ức hãi hùng và đau thương trong ngày lịch sử quốc hận này. Bài viết thật hay. Cám ơn tác giả.
ReplyDeleteNPN