Mới đây, đọc trên blog của nhà phê bình Vương Trí Nhàn ở trong nước,
tôi bắt gặp một đoạn nhan đề “Gợi ý từ một nhà kinh tế” với một số nhận xét bất
ngờ và thú vị.
Đoạn viết khá
ngắn, tôi xin phép được chép nguyên văn: “Ông Đặng Phong, một nhà lịch sử kinh
tế qua đời. Tôi biết ông nhân một lần đọc cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam
1945-2000 do ông chủ biên, thấy có nhắc thoáng qua một điều gần như ai cũng
nghĩ nhưng ít ai viết: trước 1975, kinh tế miền Nam đã ở trình độ cao hơn kinh
tế miền Bắc. Tự ngẫm nghĩ, thì thấy đúng thế, không thể khác được, không thể
nói ngược như chúng tôi vẫn nói, hoặc lảng tránh cho là cấm kỵ, và lấy những
chuyện khác nói át đi.
Nhìn rộng ra thấy
không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn; không chỉ đường
xá tốt, mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành
hơn con người miền Bắc, trình độ hiểu biết và tuân thủ luật pháp tốt, giữa người
với người có mối quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học
hơn. Như vậy dễ dàng công nhận là trình độ sống của bà con trong ấy cao, nhất
là dân thành phố. Dấn thêm một bước, trong đầu tôi thấy vụt lên cái ý, liệu có
thể nói rằng, xét trên phương diện hiện đại hóa, là con đường tất yếu mà xã hội
phải trải qua, nhân dân miền Nam đã đi xa hơn, đạt tới tầm mức văn hóa cao hơn?
Như vậy bản thân khái niệm văn hóa mà lâu nay tôi vẫn hiểu cũng phải được xem
xét lại chăng?
Tôi sẽ tự phản bác lại nhiều lần trước khi đi đến kết luận … Nhưng
càng đọc Đặng Phong ý tưởng trên càng không rời khỏi tôi.”
Đúng như Vương Trí Nhàn nói, điều Đặng Phong và ông nhận xét “gần
như ai cũng nghĩ nhưng ít ai viết”. Bản thân tôi đã nghe một nhận xét như thế từ
một bậc tài hoa nhưng nổi tiếng bảo thủ ở miền Bắc: nhà phê bình Hoài Thanh.
Sau năm 1975,Hoài Thanh và bà vợ dọn vào Sài Gòn ở. Có hai hay ba lần gì đó,
đâu khoảng 1980, một người thầy cũ thường rủ tôi đến thăm ông. Câu chuyện thường
lan man từ văn học đến xã hội.
Một lần, Hoài
Thanh chép miệng nói, đại khái: “Bản chất của chế độ nguỵ là xấu vậy mà không
hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là
cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi
cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì
không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào.”
Đặng Phong so
sánh về kinh tế, Hoài Thanh nói về văn hóa ứng xử, còn Vương Trí Nhàn bàn về văn
hóa nói chung. Người ta có thể thắc mắc: Vậy, ở những lãnh vực khác thì sao?
Như văn học, mỹ thuật hay âm nhạc, chẳng hạn? Có gì khác giữa miền Nam và miền
Bắc cũng như giữa miền Nam trước đây và cả nước bây giờ?
Trong một bài
phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện, in trên tạp chí Hợp Lưu số 103 ra vào tháng 1
và 2, 2009, sau, đăng lại trên trang Viet-studies của Trần Hữu Dũng, cũng chính
Vương Trí Nhàn đã nêu lên một nhận xét sơ khởi. Theo ông, so với văn học miền Bắc,
văn học miền Nam thể hiện “rõ hơn” và “đầy đủ hơn” những “đau khổ của con người”
và những “tình thế bi thương, đau đớn, cả sự bơ vơ, bất lực, trong đời sống”.
Khác với văn học miền Bắc, văn học miền Nam, một mặt, tiếp nối được truyền thống
cách tân trong văn học tiền chiến; mặt khác, tiếp cận được với văn học thế giới,
“sử dụng các quan niệm các phương thức của văn hóa phương Tây để diễn tả đời sống
con người hiện đại”. Văn học miền Nam cũng có những yếu tố hiện thực và nhân đạo
mà văn học miền Bắc không có.
Tất cả những nhận
xét nêu trên, về kinh tế, văn hóa hay văn học đều khá sơ lược. Một sự so sánh
công bằng và chính xác cần nhiều nỗ lực hơn nữa. Vần cần xuất phát từ một tầm
nhìn cao hơn nữa. Tiếc, những nỗ lực và tầm nhìn ấy, cho đến nay, vẫn còn tiềm ẩn
đâu đó. Trên sách vở cũng như trong học đường, văn học và văn hóa miền Nam vẫn
còn để trống, không ai nhắc đến, hoặc nếu nhắc, cũng nhắc với sự xuyên tạc và mạ
lị như trong thời kỳ còn chiến tranh.
Cũng xin nói
luôn, trích lại đoạn văn của Vương Trí Nhàn cũng như kể lại lời nhận xét của
Hoài Thanh, tôi không hề muốn khoét sâu vào óc kỳ thị địa phương vốn đầu độc mối
quan hệ giữa những người cùng một nước.
Thứ nhất, sự kỳ
thị và chia rẽ vùng miền ở Việt Nam đã quá trầm trọng; chúng ta không cần và
cũng không nên làm trầm trọng thêm nữa. Nó không có ích gì cả. Ở một thời đại
toàn cầu hoá như hiện nay, khi mọi người đang tìm cách xoá mờ dần ranh giới và
những khoảng cách giữa các quốc gia cũng như giữa các nền văn hoá, luôn luôn đề
cao sự khoan dung và cởi mở, cổ xuý cho cách nhìn liên văn hoá (intercultural)
và xuyên văn hoá (cross-cultural) mà người Việt mình cứ lại nhấp nhổm với chuyện
Nam/Trung/Bắc thì không những vô duyên mà còn nguy hiểm, không những lạc hậu mà
còn phản tiến hoá.
Thứ hai, không
nên quên, liên quan đến con người, bất cứ sự khái quát hoá vội vã nào cũng đều
bất cập và rất dễ sai lầm: ở miền Nam, không hiếm người thô bạo, thậm chí, thô
bỉ, ngược lại, ở miền Bắc, không hiếm người cực kỳ nhã nhặn và lịch sự, rất “hiện
đại” và ở tầm văn hoá cao.
Thứ ba, cũng không nên quên, trước đây, ít nhất là trước năm 1954,
ở miền Bắc, đặc biệt, ở Hà Nội, người dân nổi tiếng là thanh lịch. Sau này, gặp
lại một số người Hà Nội thuộc thế hệ cũ, tôi vẫn bắt gặp cái dáng vẻ thanh lịch
truyền thống ấy. Ngôn ngữ họ thanh lịch. Tác phong họ thanh lịch. Cách hành xử
của họ cũng thanh lịch. Nét thanh lịch ấy không còn thấy ở các thế hệ trẻ hơn.
Cho nên, những
khác biệt giữa hai miền, Nam và Bắc, không nằm ở con người. Cũng không nằm ở
truyền thống, nơi ưu thế rõ ràng là nghiêng hẳn về phía miền Bắc. Sự khác biệt
chủ yếu nằm ở chế độ. Liên quan đến chế độ, ở khía cạnh chúng ta đang bàn, yếu
tố quan trọng nhất là văn hoá, trong đó nổi bật nhất là văn hóa chính trị, tức
những cách diễn dịch cũng như những quy phạm và quy ước mà mọi người cùng chia
sẻ về quyền lực và trách nhiệm. Những quy ước và những quy phạm ấy không phải tự
nhiên mà có. Chúng là những gì người ta thụ đắc trong môi trường giáo dục, từ
gia đình đến học đường và xã hội. Trong việc thụ đắc ấy, vai trò của chế độ
đóng vai chủ đạo: Chính chế độ, cụ thể là nhà nước, quyết định về chương trình
giáo dục cũng như nội dung của truyền thông đại chúng, qua đó, hình thành những
mẫu người mà họ cần và muốn. Trong suốt hơn nửa thế kỷ, lúc nào nhà cầm quyền
cũng tuyên dương hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhìn lại,
chúng ta chỉ thấy có một điểm trong mẫu hình con người mới ấy thành hiện thực
và được phổ biến: tính thiếu thật thà.
Nghiên cứu về
văn học cũng như văn hóa miền Nam trong tương quan so sánh với miền Bắc hay cả
nước hiện nay không phải nhằm phục hồi chế độ miền Nam vốn đã thuộc về quá khứ
xa lắc và cũng không nhằm gây chia rẽ vùng miền. Mà, theo tôi, chỉ nhằm hai mục
đích chính: thứ nhất, công bằng với lịch sử; và thứ hai, để nhận diện đầy đủ
hơn những thất bại trong chính sách văn học và văn hóa hiện nay, từ đó, tìm
cách khắc phục.
Cứ quay lưng lại
với thực tế và cứ ra rả với những khẩu hiệu láo khoét rỗng tuếch về những thành
tựu đầy ảo tưởng, chúng ta chỉ kéo dài sự thất bại mà thôi. Chả hay ho gì!
TS Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment