Nhân tựa mình trên ghế say mê đọc tập thơ’’ Hờn Chiến Mã’’ thì Thủy, vợ chàng đến sát, lắt vai chàng và nói:- kìa anh nhìn ngoài thềm xem bé Trí đã đốt được cái đèn kéo quân rồi!
Nhân nhìn con tỏ vẻ bằng lòng và cất tiếng:- Trí nó cũng thông minh, hôm qua anh chỉ sơ cho nó cách đốt đèn và cách làm cho đèn xoay, chỉ có một lần thôi, thế mà nó làm được!
Thủy tiếp lời:- ờ, cậu loay hoay từ hồi chiều đến bây giờ đó, ham lắm!
-Anh
còn nhớ lúc nhỏ, học tiểu học, đêm trung thu mà trăng sáng như đêm hôm nay thì
vui lắm!
Thủy
trở giọng buồn buồn:- ừ lúc nhỏ thì vui, nhưng lúc lớn nhiều Tết Trung Thu buồn
lắm nhất là Tết Trung Thu năm 1975, anh đi trình diện rồi chúng nó
giấu anh biệt tăm. Em và chị Tính vợ anh Đức, bạn anh, đi mãi lên
Tây Ninh, dân họ nói nhốt anh trong chiến khu của chúng; em và chị Tính phải
thuê người dân địa phương dẫn đi, đi mãi đến tối mà chưa tìm ra, lại
phải vào nhà dân xin ở trọ!. Đêm đó sợ muốn chết, hai chị em thức ngồi ngoài
thềm nhà nói chuyện, đêm đó đúng là đêm Trung Thu, cảnh vật thì sáng rực nhưng
trong lòng em đầy lo lắng , không biết ngày mai sẽ ra sao! Anh biết không hôm
sau phải đi đến mười hai giờ trưa, tới trại giam nhưng họ đâu có cho vào thăm!.
Hai chị em đành trở về và khóc hết nước mắt!. Lúc đó mình cưới nhau được sáu
tháng thì nạn nước xãy ra, em cô đơn vô cùng, chỉ có ông ngoại anh là người an
ủi và giúp đỡ em nhiều!
Nhân
ngắt lời:- em biết không, anh là đứa mồ côi cha mẹ, từ nhỏ anh sống với ông
ngoại đó!. Ba anh là thầy giáo tiểu học dạy ở quận Đức Hoà, ông rất hiền lành,
thế mà vào năm 1950 tụi Việt Minh đêm khuya tới nhà bắt ba anh kết tội là tề
điệp rồi bắn chết! Mẹ anh quá sợ không dám ở lại vùng quê hẻo lánh, dắt anh về
Gia Định ở với ông ngoại, nhưng chỉ hai năm sau mẹ anh bạo bệnh phải qua đời!.
Anh là đứa con trai mồ côi khi lên bốn, cũng may còn ông ngoại bảo bọc và cho
anh trọn vẹn tình thương. Cho nên lúc Anh hoạn nạn ông ngoại thương em là phải
đó!
- Nè
anh sao kỳ thật, năm 1980, em ra Vĩnh Phú thăm anh, đò từ Ấm Thượng vào Bến
Ngọc hỏng máy, đến nơi khuya quá, phải chờ đò để qua K3, trên trời trăng tròn
sáng rực. Một người cùng đi thăm tù buông lời:- tối nay là Tết Trung Thu. Em
thầm nghĩ sao trong đời ta cứ gặp những đêm Trung thu buồn!.
- Nhân
liếc qua vợ và mĩm cười và nói:- Hồi mùa Hè đỏ lửa, đơn vị anh được lệnh chiếm
lại Cổ Thành Quảng Trị cũng vào mùa Trung Thu, khi
họp kế hoạch cho tiểu đoàn tấn công, xếp anh bảo tụi mình được chia nửa cái
bánh Trung thu đó, gắng giành cho được nha anh em.
Bánh nầy không có nhân đậu
xanh hột vịt mà toàn AK, B40 xác VC đó.
-Anh
sao cổ thành Quảng Trị mà gọi là bánh Trung Thu, Thủy hỏi.
-Tại
vì nó vuông vức tựa chiếc bánh Trung thu, cũng trong cuộc tiến quân lọt được
vào cổ thành, các ổ kháng cự của địch bị tiêu diệt gần hết, ngọn cờ tổ quốc
tung bay trong gió thu lồng lộng, anh đang tựa sát tường thành thì một phát đạn
nổ chát chúa, ghim vào cạnh sườn bên trái của anh. May quá bên ta làm chủ trận
địa nên anh được tản thương kịp thời, sau đó được đưa về Bệnh Viện Cộng
Hòa...Như định mệnh an bày chúng mình gặp nhau tại đấy!
-Thủy
tiếp lời:- hôm đó em không nhớ đoàn nào đến bệnh viện ủy lạo thương binh, nhưng
nhóm sinh viên Văn khoa có mười người đi theo trong đó có em. Khi vào một phòng
có hai người nằm thì một người thấy mệt mõi lắm, còn anh thì tỉnh, đang nằm
đọc báo.
-
Lúc em vào thăm thì anh đã nằm đó ba tháng rồi, gần xuất viện.
-
Khi còn đứng trước phòng cô nữ trợ tá giới thiệu anh là trung úy Thủy Quân Lục
Chiến. Qua sau năm phút nói chuyện được biết trước khi vào lính anh cũng học
Văn khoa, tụi nầy mới cảm thấy gần gủi anh như bạn cùng thầy. Trời đất, lúc đó
em thấy anh có nghĩa quá, anh hỏi thăm nào là thầy Đông Hồ, thầy Nguyễn duy
Cần, thầy Đào văn Dương, thầy Lê thành Trị, cô Phạm thi Tự...Lời nói của anh
hôm đó thu hút em hoàn toàn, cho nên khi phái đoàn trở về, em lén trở lại gặp
anh. Thế là từ đó không biết bao là thương nhờ đợi chờ!
-
Nhân liếc qua Thủy đặt tay lên vai nàng ân cần nói:- hạnh phúc chỉ đến với ai
biết chờ đợi đó em!
-Thủy
nhìn Nhân mĩm cười, niềm vui hiện rõ và nàng tiếp tục câu chuyện:- nước ta chịu
ảnh hưởng văn hóa Tàu nên có nhiều cái Tết như Tết Nguyên Đán , Tết Trung thu,
Tết Đoan Ngọ, Tết Hàn Thực...
-Anh
nghĩ bây giờ chỉ có Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu là còn đậm nét trong sinh
hoạt của dân ta, còn các Tết kia thi phai mờ rồi, nhiều người cũng không biết
đến!
-
Anh ơi, mỗi cái Tết đều có sự tích, nếu mình biết được thì cũng hay hay! Như
Tết Trung Thu, theo sách Điển Hay Tích Lạ của giáo sư Nguyễn Tử Quang, cuối
thời tiền Hán suy vi, Vương Mãng cướp ngôi vua lập ra nhà Tần. Bấy giờ có người
tôn thất của nhà Hán tên là Lưu Tú nổi lên chống Vương Mãng, nhưng binh lực còn
yếu, bị Vương Mãng bao vây lâu ngày nên hết lương thực, binh sĩ phải đào củ
chuối mà ăn, sau rồi củ chuối cũng không còn.
Lưu Tú rất lo lắng, bèn đặt
hương áng, cầu xin Thựơng đế ban phép mầu cho mọc vật chi để binh sĩ ăn đỡ
lòng, có sức cầm cự chờ viện binh. Lời cầu nguyện được ứng nghiệm: sáng hôm sau
binh sĩ đào đất xem có vật chi có thể ăn được, bỗng đào được một thứ khoai. Đó
là khoai môn ăn rất ngon. Nhưng binh sĩ ăn nhiều quá bị sình bụng, không tiêu
được. Lưu Tú sợ, lại đặt bàn hương áng cầu nguyện.
Ba
hôm sau, binh sĩ đi tìm thức ăn, bỗng gặp một loài cây
bưởi ăn rất ngon, chúng hái đem về ăn, lại chữa hết bịnh , nhờ vậy có sức cầm
cự chờ viện binh tới cứu. Ngày mà Lưu Tú cầu trời là ngày rằm tháng
tám âm lịch.
Sau
Vương Mãng bị giết, hai năm sau Lưu Tú toàn thắng, lên ngôi tức là Quang Võ Đế
nhà Hậu Hán. Quang Võ đóng đô ở Lạc Dương , miền Đông nước Tàu nên gọi là Đông
Hán.
Vì
muốn kỷ niệm những vật đã nuôi sống mình trong cơn hoạn nạn, nên ngày rằm tháng
tám, nhà vua làm lễ tạ ơn trời đất, thưởng trăng bằng khoai môn và trái bưởi.
Sau đó thành tục lệ lưu truyền rộng rãi trong dân gian, hai vật nầy là hai vật
chính mà người Tàu dùng để cúng trăng. Sau đó dần dần người ta có bày thêm bánh
in có đề chữ Trung Thu Nguyệt Bỉnh, tổ chức thành cái lễ long trọng gọi là Tết
Trung Thu.
Nhân
tiếp lời vợ:- Khi nói đến Tết Trung Thu là nói đến trăng tròn, trăng sáng,
trăng đẹp, nên người Tàu còn gọi Tết Trung thu là lễ Trông Trăng, trông để đoán
thời cuộc, đoán thời tiết mùa màng, trông trăng để nhà thơ tìm thi hứng.Thơ về
mùa thu nhiều lắm, có bài thật hay nhưng anh thích nhất những câu thơ của Tản
Đà:
‘’Đêm
thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần
thế em nay chán nửa rồi
Cung
quế có ai ngồi đó chửa
Cành
đa xin chị nhắc lên chơi.’’
Lúc
đó bé Hằng, con gái lớn của Nhân và Thủy vừa lên mười tuổi, đang chơi đèn với
em Trí, nghe ba đọc mấy câu thơ có tên Hằng, cháu ngó ba cười và nói:
- Ủa
sao có tên Hằng vậy?
Hai vợ chồng nhìn con, cười
vui với sự ngây thơ đáng yêu của con Thủy đáp:- Hằng là chị Hằng Nga trên cung
trăng chứ không phải Hằng con của bố Nhân đâu nhé.
Riêng
bé Trí vừa được Ba cho chiếc lồng đèn kéo quân lạ hơn các món đồ chơi điện tử,
nên bé thích, đang say mê, bé chẳng buồn để ý đến câu chuyện của người chung
quanh.
Bé
Hằng bắt tiếp câu chuyện :- Ba má ơi trên cung trăng cũng có người sao?
-Có
nhưng người trong cổ tích con ạ, Thủy đáp
-Cổ
tích hả má , kể đi con thích lắm đó.
Nhân
với tay xoa tóc con và hỏi: -bây giờ con đọc và viết tiếng Việt rành chưa?
- Dạ ở trường bạn và thầy đều là người Mỹ nên học được tiếng Mỹ mau lắm. Ở nhà mẹ dạy con tiếng Việt bây giờ con cũng rành,nay con thích đọc truyện Việt Nam lắm. Ba ơi con thích Hai Bà Trưng lắm!
Lúc
đó Thủy đang cắt mấy chiếc bánh trung thu và cất lời:- hôm qua bé lấy tập thơ
của anh ra và lựa bài Trung Thu, có bốn câu bé cứ đọc đi dọc lại và đòi má giải
thích từng chữ.
Nhân
nhìn con và bảo: Hằng đọc thơ cho ba nghe đi
Bé
Hằng vâng lời đọc:
‘’Tr
ăng quê hương ngày xưa tròn vành vạnh
Ánh
thu vàng rạng chiếu mái đầu xanh
Đèn
lồng tay bé thơ vui tiếng hát
Trọn
niềm tin sông núi đẹp thanh bình’’
Nhân
lại hỏi:- đọc thì giỏi nhưng có hiểu không con?
-Hiểu
, con hiểu, hôm qua má giải thích kỹ lắm
Nhân
cũng nhìn Thủy với sự thỏa lòng trọn vẹn và hạnh phúc tràn ngập
trong lòng chàng!
-Thôi
bây giờ ba kể chuyện chị Hằng Nga cho bé nghe đi, Thủy nói.
-
Nhân đáp:- Chà lâu quá nay anh còn nhớ đại khái, nhưng nói đến Hằng
Nga trước tiên phải nói đến Hậu Nghệ, chồng của chị Hằng.
Sự tích như sau:’’trong
thuở xa xưa, con người sống trong cõi thanh bình, không ai bức hiếp ai. Con
người không sợ họa con người, chỉ sợ thiên tai! Một hôm bỗng trời nóng như lửa
đốt, đâu đâu cũng bị hạn hán, người thú chết như rạ. Lý do trên vùng đất cuối
biển Ưông có hang Dương, nơi đầy có mười con quạ sống, vâng lệnh Ngọc Hoàng thay
phiên nhau ban ánh sáng cho thế gian.Từ ngàn xưa chỉ có một con quạ ra biến hoá
thành mặt trời, chiếu ánh sáng xuống mặt đất, giúp cho vạn vật sinh hóa. Nhưng
một hôm cả mười con quạ xuất hiện một lượt, biến thế gian thành hỏa ngục; đang
lúc tiếng khóc của chúng sinh vang dậy, có một vị anh hùng xuất hiện, đó là Hậu
Nghệ.
Hậu
Nghệ là người võ nghệ phi thường, có hai người học trò tài nghệ xuất chúng đó
là Phùng Mông và Ngô Cường. Ngay lập tức Nghệ dùng nỏ thần bắn chết chín con
quạ, còn một con Nghệ định giết nốt, nhưng Phùng Mông can:
-Thưa
thầy, nếu thầy giết chết tất cả quạ thì vũ trụ sẽ chìm trong đêm tối
vĩnh viễn!
Nghệ
nghe lời khuyên đó nên cất nỏ thần. Nhờ đó vạn vật trở lại xanh tươi, dân chúng
an lạc, coi Hậu Nghệ là vị anh hùng và tôn Nghệ làm hoàng đế.
Nhưng
chỉ mười năm sau Hậu Nghệ trở thành một hôn quân, hoang dâm vô độ, dân chúng
thì lầm than tột cùng!. Nghê kiêu căng , cho mình sẽ trường sinh bất tử , vì có
Linh Chi thảo do một vị tiên ông cho!. Trườc người ta tôn vinh Nghệ nay người
ta ai cũng ghê sợ, Nghệ đi đến đâu thì người ta xa lánh.
Nghệ tức giận sai Ngô Cường tàn sát. Riêng Phùng Mông can gián Nghệ không được
nên bỏ thầy đi họp đảng chống lại.
Vợ
Hậu Nghệ là Hằng Nga, là một thiếu nữ tuyệt đẹp, là con chim trên đồng nội,
tiếng hát tuyệt vời, Ngô Cường bắt về dâng cho thầy. Hằng Nga được Hậu Nghệ
sủng ái, cho giữ cỏ Linh chi và bị Ngô Cường canh chừng nghiêm nhặt. Nàng sống
trong sự đau buồn, nhớ cha mẹ, nhớ đồng xanh , nhớ miền hoang dã của nàng. Ngày
ngày nàng ôm con thỏ ngọc cất lên tiếng hát buồn:
‘’Ta
chỉ là con chim nhỏ
Yêu
thiên nhiên, tiếng hát tuyệt vời
Nay
sống trong lòng son bỡ ngỡ
Nhìn
qua song thương nhớ khung trời
Ta
nhớ cảnh bao la trời rộng
Thương
núi rừng sông nước mênh mông
Những
chiều gió phương Nam lồng lộng
Tình
hoài hương khoắc khoải trong lòng.
-Thả
ta ra trở về đồng nội
Trong
lòng son ta chết mõi mòn.
Trước
sự tàn bạo của chồng, Hằng Nga không can được, nàng nghĩ rằng nếu Hậu Nghệ
trường sinh bất tử thì dân chúng mãi mãi lầm than, nên nàng ăn hết cỏ Linh chi,
để Nghệ không còn dùng cỏ tiên mà trường sinh nữa.
Vừa
nuốt hết cỏ tiên, Hằng Nga cảm thấy cơ thể nàng được nhắc bổng lên, nàng ôm thỏ
ngọc vào lòng, qua cửa sổ bay lên cung trăng.
Hậu
Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga, chàng tức giận giết chết Ngô Cường! Nghệ chạy
ra ngoài nhìn lên thấy bóng Hằng Nga thấp thoáng trong trăng, chàng hô quân sĩ
đem nõ thần ra và chàng bắn thẳng lên mặt trăng ba phát, mặt trăng không hề hấn
gì, vẫn tiếp tục rạng chiếu lung linh.
Bỗng
cụ già xuất hiện, nhìn ra là ông lão đã cho Nghệ Linh chi thảo cách
đây mười năm. Cụ già liệng ba mũi tên xuống đất và nói:
-Già hỏi cố nhân:- mười năm
trước, ta có nói với cố nhân rằng việc trị đời không khó, nếu ta biết quên mình
mà lo cho đời, mình phải biết lo trước người và vui sau khi người vui. Dân qúi
nhất, nước quí thứ hai, thứ ba mới tới vua. Cố nhân hứa sẽ làm đúng lời ta nói
và tha thiết muốn sống mãi để hoàn thành sự nghiệp. Ta đã nghĩ đời sống thì hữu
hạn mà sự nghiệp thì vô cùng nên ta có cho cố nhân Linh chi thảo.Vậy mà khi nắm
được quyền hành trong tay, cố nhân lại quên hết, chúng sinh lầm than đau khổ
dưới gót sắt của cố nhân. Sự nghiệp nay chắc chắn tan hoang rồi, cố nhân có thức
tỉnh chưa?
Nghệ
gục xuống , thều thào xin cụ già chỉ dạy!
Cụ
già nói:- mọi việc đã trễ rồi, cố nhân hãy cởi bỏ long bào đi và thực lòng ăn
năn mới bảo toàn được tính mạng!
Nghe
vậy, Nghệ nổi giận, tuốt gươm chém Cụ già và lớn tiếng:- ‘’Sao ta bỏ quyền hành
được’’
Cụ
hất thanh gươm rời khỏi tay Nghệ và bình thản nói:-Đến bước đường cùng mà cố
nhân còn hiếu sát!
Bóng trăng chìm vào vầng mây trắng, cụ già biến mất. Ngay lúc đó Phùng Mông đem đại quân đến bao vây. Phùng Mông chỉ vào Hậu Nghệ nói:-Thầy đã gây biết bao tội ác, nay xin thầy tự xử lấy.
Hậu
Nghệ nhìn lên bóng trăng mờ gọi to-:Hằng Nga! Hằng Nga...đoạn dùng gươm đâm vào
cổ chết. Xác Nghệ ngã xuống giữa tiếng reo hò của dân chúng!
Trong cung trăng, bên cây quế cao, mùi thơm ngào ngạt, Hằng Nga ngồi xem thỏ ngọc tán thuốc, thỉnh thoảng nàng thở dài sa nước mắt, thương nhớ trần gian, xa xa làn khói lam chiều quyện trên mái lá, Hằng Nga mơ tưởng đến quê hương yêu dấu của mình. Còn ở đây bốn bề vắng lặng, không có bốn mùa, không sinh không hóa. Hoa không nở mà cũng không tàn; suốt ngày hiu quạnh lẻ loi, Hăng Nga muốn trở về trần gian, nhưng sao được, vì nàng đã ăn cỏ Linh chi, phải sống kiếp trường sinh, trẻ mãi đẹp mãi, quanh năm cô quạnh nơi chốn Quảng Hằng!
Kể
tới đây như hết chuyện cổ tích, Nhân với lấy miếng bánh Trung Thu và nghe bé
Hằng nói:
-Ba
ơi con thích chuyện nầy lắm, hôm nào ba chép ra cho con, lên lớp cao con dịch
ra tiếng Mỹ kể cho cô giáo và các bạn con nghe trong một buổi’’ author tea’’.
Nhân
đáp:- ừ hôm nào ba chép ra cho con.
Ngay
lúc đó bé Trí từ ngoài chạy vào nói lè nhè: con buồn ngủ quá!, con buồn ngủ
quá! Bé Hằng nhanh lẹ nắm tay em dìu vào buồng.
Bấy giờ chỉ còn Nhân và
Thủy ở ngoài, ánh trăng xuyên qua khung cửa kính, đổ ngập vào phòng.
Chiếc
đồng hồ trên tường thong thả gõ giờ. Nhân nói nhừa nhựa cố ý chọc Thủy: -anh
nghe mười một tiếng đó em, tới phiên anh buồn ngủ rồi!
Thủy
đáp:-à khuya rồi anh vào trước, em dẹp dọn một tí em vào sau.
Nhân
đứng dậy bá vai Thủy và nói:-em bảo từ trước đến nay em chỉ gặp đêm Trung Thu
buồn, nhưng đêm nay phải là Trung Thu hạnh phúc.
Thủy
cười và đáp:-hiểu rồi, em hiểu ý anh rồi!
Nhân
bước khuất sau buồng và tiếng chàng ngâm thơ vọng ra:
‘’Trăng
quê hương đợi chờ trăng viễn xứ
Buổi
tao phùng sáng rực giữa quê hương
Thôi
biệt xứ hết đau hồn cô lữ
Núi
sông mình thoát khỏi cảnh âm u’’.
Hàn Thiên Lương
No comments:
Post a Comment