Ông Bảy thợ rèn ở gần nhà ngoại tôi trong một khu phố lụp xụp cạnh tỉnh lỵ. Đường vào lò rèn trải đá xanh lồi lõm dơ dáy, nhất là vào mùa mưa. Nhưng mùa nắng con đường nầy cũng vẫn lầy lội vì bên hông nhà ông Bảy có cái giếng nước. Suốt ngày từ sớm mai tới chiều tối, không lúc nào không nghe tiếng thùng thiếc va vào thành giếng loảng xoảng. Khu nầy chưa có nước máy nên cả xóm phải nhờ vào cái giếng. Lò rèn của ông Bảy vốn đã náo nhiệt, lại càng náo nhiệt hơn. Người ta chờ đợi tới phiên để lấy nước, rảnh rổi qua bên ông Bảy coi rèn dao rèn kéo, nói chuyện nắng mưa. Tôi khoái nghe ông Bảy nói chuyện, bất cứ chuyện gì. Chưa bao giờ tôi thấy ông mặc quần áo nào khác ngoài cái quần xà lỏn đen. Ngực nở nang, da đen bóng thường đỏ hồng dưới ánh lửa. Tuy tuổi đã trên 50 mà thân thể ông còn lực lưỡng lắm. Các bắp thịt nổi lên cuồn cuộn. Chiếc búa tạ thật to mà ông cầm coi nhẹ nhàng. Từng nhát búa đập trên thỏi sắt nung đỏ, lửa văng tung tóe như đốt pháo bông. Những buổi trời mưa lành lạnh, ngồi bên lò than đỏ rực, coi ông Bảy rèn dao, miệng bàn đề 40 con thì không còn gì sướng hơn nữa.
Ông ngoại tôi và ông Bảy là 2 ông
bạn già tâm đầu ý hợp. Lúc nào tôi qua nhà ngoại mà không có thì chắc là ngoại
ở lò rèn, chớ không đâu khác. 2 ông mà bàn đề thì khỏi nói, nổi tiếng ở cái xóm
nhỏ nầy. Có lần ngoại tôi cầm tờ Thần Chung chỉ vào cái mục “Thì Thầm”có cái
câu - người sáng suốt phải nhìn trước trông sau, cho ông Bảy thấy. Ông ngọai
tôi trầm ngâm, suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Tôi chắc con chó. Đúng rồi, đánh
số 11 là được.
Ông Bảy hỏi tại sao? Ông ngoại tôi
được dịp bèn giải nghĩa:
- Sách nho có câu “lang bạt kỳ hồ,
thoái sĩ kỳ vĩ” nghĩa là con chó sói tiến tới trước thì vướng cái nọng, thối
lui ra sau thì vướng cái đuôi, cái thế không biết phải làm sao, ý nói là tiến
thoái lưỡng nan.
Rồi ông chép miệng:
- Cái thằng ra thai đề ác thiệt. Nó
nói nhìn trước trông sau. Trước là cái nọng chó sói, sau là cái đuôi chó sói đó
mà, anh Bảy nghĩ coi đúng không?
Ông Bảy cười đưa hàm răng sún ra,
nói:
- Ờ, ờ, cũng có lý. Nhưng theo tôi
tính, chắc là con heo. Tôi thấy cái ý “nhìn trước trông sau” đó.
Tôi ngồi kế bên ngẩn ngơ, không hiểu
tại sao lại là con heo, bèn vọt miệng hỏi ông Bảy:
- Bộ con heo ưa nhìn trước trông sau
hả ông Bảy?
Ông Bảy cười:
- Mầy không hiểu gì hết. Bàn đề phải
lấy ý nghĩa sâu xa, chớ đâu phải thấy thế nào đánh thế đó. Nói như mầy thì ai
đánh đề cũng trúng hết, làm giàu mấy hồi. Để tao giải nghĩa cho nghe nè, cái ý
ở hai chữ “trông sau” đó. Trông sau là nhìn ra phía sau. Vậy là quay lại. Quay
là heo quay. “Các chú” ưa ăn heo quay!
Tôi hiểu ra, khoái quá nhảy tưng
tưng, cầm tiền của 2 ông chạy một mạch lại nhà
chú Cánh để mua con heo với con chó. Chiều đó, đề xổ con vịt. 2 ông già bứt đầu
bứt cổ tiếc hùi hụi, tức mình vì quên mất món vịt quay.
Thuở đó, tôi độ 12, 13 tuổi. Mỗi
ngày tôi được trao cái nhiệm vụ thật quan trọng là vào mỗi sáng sớm chạy ra sạp
báo mua tờ Thần Chung cho ông ngọai và tờ Tiếng Dội cho ông Bảy. 2 ông thì coi
mục “Thì Thầm” với mục “Nhỏ To” để bàn đề, còn tôi thì giành lấy trang trong để
coi “Châu Về Hiệp Phố” của Phú Đức. Cái tánh mê tiểu thuyết và chuyện lạ chất
chứa trong bụng từ nhỏ. Có hôm thầy giáo dạy địa dư nói về trái đất tròn và
quay chung quanh mặt trời, tôi bèn khoe với ông Bảy, ổng trợn tròn cặp mắt:
- Mầy nói cái gì lạ vậy? Nói lại tao
nghe coi!
Tôi nói một mạch:
- Ông thầy giáo nói trái đất tròn
như trái banh. Nó quay suốt ngày không bao giờ ngừng. Mà nó quay nhanh lắm…
Ông Bảy lắc đầu:
- Tao không tin. Nếu trái đất tròn
tại sao mình đứng được không té. Nếu nó nhúc nhích, lăn như trái banh là mình
đã lọt ra ngoài rồi. Bằng chứng là nó bằng phẳng như mầy thấy đó và đứng im nên
mình mới cất nhà được. Nếu nó động đậy thì nhà cửa rung rinh hết.
Tôi cãi lại:
- Tại vì trái đất nó lớn quá nên
mình tưởng nó bằng. Thiệt ra trái đất tròn, ông Bảy không tin ra Vũng Tàu coi,
mặt biển cong vòng hà…
- Tao chưa đi Vũng Tàu lần nào nên
không thấy biển. Cái gì tao không thấy thì không tin.
Tôi tức mình, sách vẽ rõ ràng trái
đất tròn mà ông Bảy nói nó vuông, bèn chứng minh y như thầy giáo đã dạy:
- Ông Bảy đứng ở bờ biển sẽ thấy
tuốt ở đàng xa cái ống khói tàu. Rồi khi tàu đến gần sẽ thấy thân tàu rồi khi
tới bờ sẽ thấy rõ cả chiếc tàu. Như vậy là tại trái đất tròn, nó cong nên mình
mới thấy cái ống khói trước.
- Tao không tin vì tao chưa đi ra
biển lần nào làm sao thấy cái ống khói tàu. Vô lý! Mà nếu nó quay như trái banh
thì mình lọt tuốt ra ngoài rồi.
Tôi kiên nhẫn chứng minh nữa:
- Trái đất quay nhanh nhưng mình
không lọt ra là nhờ có trọng lực. Ở ruột trái đất có một cái sức hút tất cả mọi
vật xuống dưới đất nên mình không rơi ra ngoài.
Ông Bảy lắc đầu nguầy nguậy:
- Cái thằng bữa nay nói chuyện tầm
bậy không hà! Con chim nó bay tại sao không bị hút xuống đất? Mầy có giỏi giải
nghĩa cho tao nghe đi. Mấy cái thằng Tây thực dân dạy tầm bậy tầm bạ. Đồ cái
thứ xâm lăng ăn cướp. Hôm qua thằng Tèo cảm sơ sơ đi lên nhà thương, bị chích
chết ngắc. Phải chi ra tiệm chú Hỉ mua gói “ngọai cảm tán” thì đâu có sao! Mầy
coi chừng đó, ngày nào trong trường bắt chích ngừa thì phải trốn cho kín. Chớ
dại dột mà nghe lời tụi nó. Phải khôn ngoan để ý, đừng có tin bậy bạ. Thiệt mầy
còn nhỏ nên ngu quá trời! Tao già rồi, làm sao nó gạt được. Cái gì thấy rõ ràng
thì mới tin. Đừng nghe người ta nói.
Tôi bán tín bán nghi. Hổng lẽ thầy
giáo tôi dạy bậy. Mà ông Bảy nói cũng có lý. Ông đã từng trải, già đời rồi. Con
cái lớn cỡ ba má tôi. Ông ngoại tôi cũng phục ông Bảy lắm. Bằng chứng là cái vụ
đánh đề, ông Bảy đôi khi còn trúng, còn ngoại tôi thì ít khi. Tôi lại đem cái
vụ Tây thực dân ra hỏi ông ngoại. Ông ngoại tôi cũng nói y như ông Bảy. Thiệt
là 2 ông già tâm đầu ý hợp. Nhiều khi đọc báo thấy Tây bị đánh ở sông Lô, sông
Đà, 2 ông sướng khoái lắm. Vui nhứt là hôm ký hiệp định Genève, tôi phải đứng
chờ đợi, giành giựt mãi mới mua được tờ báo rách. Chạy u về đưa cho ông Bảy.
Ông rướm rướm nước mắt như muốn khóc, nói nghẹn ngào:
- Vậy là nước
mình yên rồi. Thôi kỳ nầy thằng Út về tôi cưới vợ cho nó, bắt ở nhà hủ hỉ với
tôi.
Ông ngoại tôi cũng cảm động không
kém:
- Tôi cũng vậy, thằng Bảy bỏ nhà đi
cả chục năm nay. Bây giờ yên ổn thì về lo chăm sóc ruộng vườn. Căn nhà hương
hỏa là phần của nó đó. Mấy mẫu ruộng ở Xóm Mương
cũng đủ sống rồi. Nghỉ ngơi cho khỏe.
Đêm đó 2 ông thức tới khuya, nhậu đã
đời. Mấy ông già lối xóm cũng đến chén chú, chén anh, tôi phải chạy ra tiệm chú
Cánh mua ruợu thêm. Vui quá.
Cậu Bảy tôi với chú Út nghe nói lại
đi theo Việt Minh, từ hồi 45 lận, cái thời tầm vông vạt nhọn. Lúc đó tôi còn nhỏ
xíu. Tôi còn nhớ mang máng mấy người lớn
thường cầm cờ đỏ sao vàng vừa đi vừa hát. Rồi có những buổi hội họp gì bí mật
lắm. Bây giờ câu chuyện 10 năm trước được nhắc
lại. Tuy không biết gì, tôi cũng nôn nao muốn làm người
lớn để đi đánh Tây cứu nước. Công lao đó chú Út với cậu Bảy tôi hưởng hết trơn
rồi, còn đâu tới phiên tụi con nít như tôi. Mùa nghỉ hè tôi về quê nội ở Hậu
Giang thì ông ngọai với ông Bảy lặn lội rủ nhau đi Xuyên Mộc để tiễn đưa 2
người con đi tập kết ra Bắc. Chú Út với cậu Bảy tôi cũng không biết bao giờ về
nữa. Đất nước chưa yên. Thân trai còn nặng nợ. 2 ông già vẫn không nguôi hy
vọng chờ đợi 1 ngày rất gần, gia đình được xum họp. Đất nước lại bị chia đôi.
Tàu Nga và Ba Lan chở từng đoàn chiến sĩ trong Nam ra Bắc. Trong khi đó thì tàu
Mỹ và Pháp chở hàng triệu đồng bào vào Nam.
Ông Bảy nhìn những người mới tới, lắc đầu than thở:
- Ở ngoài đó sướng quá. Cách mạng
thành công, đất nước độc lập thanh bình, tự do hạnh phúc, bỏ đi chi cho cực khổ
như vậy. Tôi mà còn trẻ, thì cũng xin ra đó… lập một cái lò rèn!
Vài tháng sau trước lò rèn có một
cái xe phở. Bác bán phở cỡ tuổi ông Bảy thợ rèn. Không biết bác ấy tên gì nhưng
nghe nói chuyện thường có tiếng cơ ở phía sau nên cả xóm gọi mãi thành tên. Bác
Cơ bán phở ngon lắm mà lại rẻ. Xóm lò rèn bắt đầu được nếm món ăn Bắc. Ăn phở
thì thích nhưng nghe bác Cơ nói chuyện thì không chịu được. Bác nói ở ngoài Bắc
người dân sống khổ cực. Công an kìm kẹp, theo dõi, bắt bớ. Dân chúng làm quần
quật mà không có ăn. Nhà cửa, đất đai, xe cộ gì cũng bị tịch thâu hết. Sống
thua con bò, con heo!
Ông Bảy nghe chuyện đó, mặt hầm hầm,
nói với tôi:
- Thằng cha bán phở đó là công an
tuyên truyền. Nó nói xấu Việt Minh. Người ta làm cách mạng là để đem lại hạnh
phúc ấm no cho dân chúng. Nếu dân chúng khổ cực, cơm không có ăn, áo không có
mặc, bị bắt bớ giam cầm thì làm cách mạng làm chi! Mầy đừng có ăn phở của thằng
cha đó nữa. Tao ghét tụi tuyên truyền lắm!
Thấy ông Bảy nói có lý nhưng phở của
bác Cơ ngon quá làm sao mà nhịn thèm cho được, thành ra tôi đành chịu để bác Cơ
tuyên truyền mỗi ngày.
- Cậu không biết chớ học sinh ngoài
ấy vất vả lắm cơ! Ngoài các buổi học ra phải đi lao động trồng khoai, trồng sắn
ở các vùng cao. Các ngày lễ, ngày chúa nhựt phải đi đào kinh, đắp đê cho Bác
với Đảng. Làm nhọc mệt mà không có gì để ăn cơ! Không phải sung sướng như trong
Nam nầy cơ!
Tôi nghe thấy lạ quá. Chúa Nhựt sao
không được nghỉ, đào kinh để làm gì? Tôi không hiểu được, bèn hỏi bác Cơ:
- Cực quá thì đừng thèm làm. Ai làm
gì mình được.
Bác Cơ trợn mắt nhìn tôi:
- Không làm sao được cơ! Đi học tập
là chết! Người nào có lý lịch xấu là kể như khó sống lắm cơ! Cậu không hiểu nổi
đâu, ở ngoài đó ăn con gà cũng phải xin phép nữa cơ!
Tôi ngẩn ngơ. Thế là tuyên truyền
quá đáng rồi. Đi học tại sao lại chết được? Ăn con gà phải xin phép? Làm gì mà
quá như vậy! Tôi nói lại cho ông Bảy lò rèn nghe.
Ông Bảy cười ngất:
- Đó mầy thấy tao nói đúng chưa. Nó
là công an tuyên truyền mà. Con nít mà đào kinh làm sao nổi. Nội cái vụ ăn con
gà phải xin phép là nói láo rõ ràng. Gà của mình nuôi thì cứ việc ăn. Xin phép
ai? Nói vừa vừa nguời ta còn tin. Nói quá ai thèm tin. Như nhà của tao ở đây ai
mà vào xét hỏi trái phép là tao đuổi ra lập tức. Láng cháng là tao thưa tới tòa
- xâm nhập gia cư bất hợp pháp. Thằng cha Cơ chắc ở ngoài Bắc làm tay sai cho
thực dân, phong kiến nên chống đối cách mạng. Cộng sản là gì? Cộng sản là công
bằng. Trong xã hội Cộng sản không có kẻ giàu, người nghèo, kẻ có quyền thế,
người cùng đinh nghèo khổ bị bóc lột. Ai cũng như nhau, sống êm vui hạnh phúc.
Mầy thấy như vậy có hay không? Chớ như trong Nam mình, người giàu thì xa xĩ
thừa thãi mà kẻ nghèo thì không có gì mà ăn. Người làm cách mạng, cũng như tao
rèn cục sắt, chỗ nào cao phải đập cho dẹp xuống, chỗ nào thấp phải gò cho cao
lên. Như vậy mới gọi là cách mạng. Nếu cách mạng sai lầm, sao tao với ông ngoại
mầy cho chú Út với cậu Bảy mầy đi ra Bắc?
Ông Bảy nói xong, tôi chợt hiểu rõ.
À, thì ra, cách mạng hay thiệt. Vậy là phải. Mấy thằng cha nhà giàu đáng ghét.
Tịch thâu nhà lầu, xe hơi của tụi nó để chia cho nguời nghèo là phải quá rồi.
Cái gì của nhân dân thì phải trả về cho nhân dân chớ.
- Nhưng bác phở Cơ cũng nghèo vậy! Ở
ngoài Bắc cũng bán xe phở đâu giàu có gì? tại sao không thích cách mạng?
- Mầy ngu quá. Vô đây nó nói vậy,
biết đâu ở ngoài Bắc nó là nhà giàu, địa chủ, tư sản gì đó. Cái gì thích thì
nói tốt. Cái gì ghét thì nói xấu. Nó ghét cách mạng thì nói xấu tàn tệ. Nếu chế
độ mới lại xấu hơn chế độ cũ thì sao gọi là cách mạng được. Ở bên Nga, bên Tàu,
người ta đã làm mấy chục năm nay rồi. Có chết ai đâu?
- Ông Bảy ơi! con nghe kể ở ngoài đó
con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng nữa, cái gì cũng đi thưa công an hết, ghê quá!
- Thôi mầy ơi ! Nói như thằng cha
phở Bắc thì mấy người đi làm cách mạng điên khùng hết rồi. Tao không tin. Mầy
phải luôn luôn nhớ câu nói của tao là “cái gì thấy rõ thì mới tin” đừng bao giờ
nghe người ta nói. Chừng nào tao thấy rõ tận mắt thì tao mới công nhận. Tụi
thực dân, đế quốc nó tuyên truyền ghê lắm.
Tôi nhìn kỹ ông Bảy thấy ông nói rất
thành thực. Khuôn mặt già da nhăn nheo nhưng ánh mắt cương quyết. Trong tia mắt
đó, tôi chợt thấy vẻ xa xôi như trông ngóng, chờ đợi đứa con út thân yêu trở
về. Chú Út, con ông đang làm cuộc cách mạng, cũng như cậu Bảy tôi, ở đất Bắc.
Tôi nhớ lại khuôn mặt và ánh mắt của bác phở Cơ. Đường nét tuy có khác nhưng vẻ
cương quyết và thành thực giống nhau. Lời nói của bác còn văng vẳng:
- Cậu cứ suy nghĩ, tại sao tôi phải
bỏ hết cha mẹ, vợ con, bỏ hết quê hương xứ sở, liều chết để ra đi? Tôi cũng là
con người, cũng có tình cảm vậy! Vậy thì tại sao cơ?
Ông Bảy thợ rèn đã vì cách mạng hy
sinh để chú Út ra Bắc. Bác phở Cơ cũng vì cách mạng bỏ hết tài sản, vợ con để
vào Nam. Sự thực chỉ có một mà sao lại có 2 lối giải quyết khác nhau? Câu hỏi
đó ám ảnh tôi và câu trả lời thỏa đáng chưa có.
Cuộc chiến đẫm máu tàn khốc vẫn kéo
dài. Mỗi ngày nhà cửa rung rinh vì bom đạn. Cảnh tang thương đổ nát không phải
là chuyện trong tiểu thuyết nữa. Riết rồi con người trở nên chai lỳ đi. Ông
ngoại tôi đã già, mất sau một cơn bịnh nhẹ. Ông Bảy thợ rèn trơ trọi, tuy nhiên
nhờ hai người con trai lớn khá giả nên nhà cửa xây cất lại đẹp đẽ hơn. Lò rèn
đã dẹp bỏ từ lâu. Chỗ đó trở thành garage sửa xe hơi. Lâu lâu tôi ghé thăm, ông
Bảy đã trên 70. Tuổi già nhưng người còn quắc thước lắm. Ông thường nhắc tới
chú Út và than thở không biết có gặp được đứa con thân yêu trước khi về với ông
bà không?
Riêng bác phở Cơ thì ngày càng sung
túc. Bác không còn bán phở ở xóm lò rèn nữa mà đã ra tỉnh mở hiệu phở to. Bác
chăm chỉ cần mẫn. Quần áo điệu bộ cũng không khác hồi mới di cư vào. Quả thật
“đại phú do thiên, tiểu phú do cần”.Lúc nầy, thỉnh thoảng
ông Bảy ra ăn phở ở hiệu bác Cơ. Chuyện chánh trị dẹp qua một bên. Tìm được một
người bạn già đâu phải dễ. Mỗi lần ông Bảy gặp bác Cơ thì 2 ông ngồi với nhau
hằng giờ. Lâu lâu mới nói với nhau một tiếng.
Thời buổi lộn xộn, nghe nhiều hay hơn là nói. Vả lại câu chuyện cách mạng đã quá
lỗi thời rồi, cãi nhau cũng chẳng giải quyết được gì! Cách mạng tốt hay xấu đâu
có quan hệ gì tới 2 ông già trên 70 tuổi. Nó chỉ quan hệ tới những nguời còn
trẻ như tôi…
Ngày đó, tôi gặp lại ông Bảy thợ
rèn. Vầng trán của ông vẫn rộng nhưng ánh mắt thì buồn. Hai má ông lõm sâu cỡ
bằng trái chanh nhỏ. Xương gò má nhô cao, dáng tiều tụy. Ông buồn quá, xách gậy
đi lang thang lối xóm. Ngang nhà tôi, ông ghé vào nghỉ mệt. Tôi mời ông uống
trà và hỏi thăm việc nhà cửa. Ông thở dài:
- Thằng Hai bị bắt đi học tập, vợ đã
về quê ở Mỏ Cày để sinh sống. Cái xe đò của thằng Ba bị lấy, tụi nó nói khéo là
trưng dụng. Cái nhà bị Công Ty Giao Thông Vận Tải Đường Bộ mượn làm văn phòng.
Gia đình phải làm đơn xin xỏ lắm mới được ở tạm sau nhà xe. Tao thấy mấy đứa
cháu nội đi lao động mà đứt ruột đứt gan. Tháng rồi thằng Dân mới 15 tuổi bị
bắt thăm trúng phải đi thủy lợi ở Chánh Lưu. Thằng nhỏ dầm mưa giải nắng, chịu
không thấu, phần bị sốt rét nóng mê man, được chở về, hổm rày lo thuốc thang
chữa chạy. Còn mấy đứa em nó thì đi bươi các đống rác, lượm giấy vụn, túi ny
lông cũ để góp cho thầy giáo xây dựng kế hoạch nhỏ trong trường. Riêng phần tao
phải nuôi 1 con heo, 10 con gà để xã thực hiện kế họach chăn nuôi tự túc lương
thực khu phố. Mỗi ngày tao phải đi kiếm đồ ăn cho heo gà. Mà cơm gạo bây giờ,
mầy biết đó, nguời ta không có mà ăn nói chi tới súc vật. Cứ vài tháng ông Tổ
Trưởng lại kiểm soát coi có mất con nào không để báo cáo lên cấp trên lập thành
tích tốt cho xã. Đến bây giờ tao mới hiểu lời của thằng cha phở Cơ…
Tôi đỡ lời ông Bảy:
- Cách mạng mới về, còn nhiều khó
khăn, cũng như ông Bảy rèn cục sắt phải đốt… cho nóng đỏ.
Ông Bảy cười mỉa:
- Hứ, rèn cái kiểu cộng sản. Tụi nó
nhắm mắt lại mà đập. Chỗ cao xẹp xuống đã đành, chỗ thấp cũng dẹp lép. Tao già
như vậy mà hôm trước còn bị giáo dục. Ngày lễ mừng sinh nhựt cụ Hồ có lịnh phải
treo cờ trước nhà. Nhà tao bây giờ thụt tuốt phía sau, nó là cái garage, có
phải là cái nhà đâu. Vậy mà thằng công an khu vực đi sồng sọc vào giữa nhà, hăm
he đủ thứ. Tao đành phải đi kiếm mua để treo…
Tôi nhớ đến bác phở Cơ và những lời
ông Bảy dạy dỗ ngày xưa, thấy thương ông quá, hỏi tiếp:
- Vậy còn chú Út, nghe nói làm lớn
lắm mà không can thiệp gì cho gia đình sao?
Ông Bảy đương cầm tách nước trà đưa
lên môi, nghe hỏi, không uống rồi để xuống, dáng ngập ngừng đắn đo. Hồi lâu ông
nói nho nhỏ, giọng ngắt quảng:
- Nó về, tao mừng. Nhưng thôi, tao
không muốn nhờ nó điều gì. Nó với mấy anh nó, với gia đình, bây giờ khác chí
hướng. “Người ta” nhờ mình thì được, chớ mình nhờ “người ta” khó lòng lắm.
Chuyện trong gia đình, tao cũng không muốn cho nó biết, không nên. Cũng may,
tao chỉ làm nghề thợ rèn nghèo nhờ tiện tặn nên dư dả chút ít, nếu giàu có thì
không biết bây giờ ra sao rồi. Dầu sao thì ở trong Nam, ai cũng là “ngụy” hết,
thằng Út nó sợ lây rồi bị phê bình, kiểm thảo. Nó bây giờ có cụ Hồ với Đảng
rồi, đâu cần có tao. Mầy đừng nhắc tới nó nữa…
Ông Bảy nói tới đó, ngồi thở dốc.
Nỗi bực tức làm ông mệt nhoài. Không giận sao được, cả đời ông đầu tư trọn vẹn
tình yêu vào cách mạng, nghĩa là trong đó có thằng con trai út của ông. Nào ngờ
ông đã lỗ vốn nặng. Cách mạng về ấm no hạnh phúc tìm hoài không thấy. Chung
quanh chỉ có khóc than đói khổ, tức tưởi, căm hờn. Riêng chú Út mặt mày giống
hệch ông nhưng tình cảm và ý nghĩ giống Bác và Đảng. Cái dây liên hệ cha con
mong manh quá. Ông Bảy phải trên 20 năm mới thấy điều đó. Ông đã trồng cái cây
“cách mạng” thật là công phu, bây giờ lại hái cái trái đắng nghét.
Cuộc đời ông Bảy thợ rèn như lần
đánh đề ngày xưa. Ông bàn con heo quay, nhè đâu cách mạng xổ ra con vịt cồ.
Võ Kỳ Điền
Hay thiệt. Ông Bảy đáng đề con heo quay , ngờ đâu xổ ra con vịt cồ !!!
ReplyDelete