Khi
chấm dứt chiến tranh năm 75 ông giáo Quờn làm đơn xin trở về nguyên quán ở kênh
Mười Hai cách Cai Lậy chừng 12 cây số trên đường đi Mộc Hóa. Nhà cửa ruộng vườn
vẫn còn nguyên do người em trông coi và chăm sóc trong mấy năm chiến tranh khi
ông tản cư ra chợ.
Thay
vì tiếp tục dạy học ở chợ quận, ông lại xin thuyên chuyển về trường tiểu học Mỹ
Hạnh Trung cho gần nhà. Vợ và các con vẫn còn ở ngoài thị trấn Cai Lậy như trước
vì mấy đứa nhỏ đã quen sinh hoạt ở chợ nên không muốn về quê. Hơn nữa từ Cai Lậy
về nhà cũng gần, đường lộ tráng nhựa rất dễ đi.
Trước
đây muốn về nhà phải qua đò ngang ở chợ rất bất tiện. Nay chính quyền đã cho bắc
một cây cầu sắt ngang kênh nên giao thương rất dễ dàng, xuống tận các xã giáp
ranh vùng nước trũng phèn trong miệt Đồng Tháp. Dọc theo hai bên bờ cạnh cây cầu
sắt, nhà cửa mọc lên san sát. Chợ mới xây đối diện với bến đò, sinh hoạt rất nhộn
nhịp sầm uất. Ghe xuồng tấp nập ngày đêm.
Ngoài
công việc dạy học ở trường ông giáo còn chăm lo việc đồng áng. Thóc lúa vụ đầu
trúng đậm. Sau đó một thời gian, bà giáo thấy mọi việc đều khấm khá bèn dẫn hết
mấy đứa con nhỏ về lại chợ kênh Mười Hai cất một ngôi nhà gần cây cầu sắt, mở
tiệm mua bán đồ hàng xén. Nhờ mọi người ở đây đều quen biết với ông giáo nên cửa
tiệm ngày càng đông khách.
Ông
giáo sinh ra và lớn lên ở làng quê Mỹ Hạnh Trung từ thời Pháp thuộc, lúc bấy giờ
rất hiếm người đi học, nghèo đã đành, còn giàu có thì con cái lại sống sung sướng
như công tử, học hành chi cho cực thân. Thậm chí chính quyền thuộc địa kiểm kê
dân số bắt buộc địa phương phải có người đi học thì các gia đình đại điền chủ lại
thuê người đi học thế. Ông thuộc gia đình nghèo khó nên cha mẹ thuận theo giao
ước của chủ điền cho con đi học thế, để được miễn tô 20 giạ lúa hằng năm.
Chi
phí ăn học do chủ điền lo, kể cả áo quần và tiền bút mực, sách vở. Thỉnh thoảng
còn trợ cấp gạo và ít khô mắm để cho đứa nhỏ hăng hái mà học hành. Cho đến khi
thi đậu được bằng tiểu học và ra đời làm nghề giáo hơn 20 năm nay. Ông dạy chỉ
duy nhất ở một trường Tiểu Học Cai Lậy và thường hay đi lại bằng chiếc xe đạp cổ
lỗ sĩ có từ thời xa xưa.
Ông
dạy học bấy nhiêu năm thì chiếc xe đạp cũng từng ấy tuổi. Hình ảnh một người
trung niên cưỡi chiếc xe đạp đòn dông màu đen hiệu en-xông (Alcyon) có túi dết
bằng da sờn mép cong queo đựng sách vở, cột phía sau ba-ga là hình ảnh quen thuộc
của một ông thầy giáo làng đã ăn sâu vào trong trí tưởng của nhiều lớp học sinh
Cai Lậy thuở trước năm 1975.
Ông
thường hay nhắc lại chuyện cũ năm xưa, đi học thế cho con nhà giàu, để dạy dỗ
con cái rằng chỉ có “vất vả, nghèo khổ, chịu khó học hành mới nên người.”
Gia
đình ông không có ai tham gia chế độ cũ và được xếp vào loại “gia đình trong sạch”
có nghĩa là ưu tiên chỉ sau những gia đình có công với cách mạng cho nên cũng không
có sự phân biệt đối xử khắc nghiệt nào đến độ phải kêu ca hay ta thán mỗi khi
có đơn xin xác minh lý lịch để đi học hay làm ăn mua bán. Trong thời chiến
tranh chỉ vì sợ gia đình bị trúng bom đạn nên tản cư ra chợ cho yên thân. Nhân
nghĩa tại tâm. Ông không theo phe nào. Vậy thôi.
Đến
năm chính quyền thi hành chính sách hợp tác hóa nông nghiệp, tất cả các hộ nông
dân đều phải vào hợp tác xã. Nhất nhất mọi ngành nghề mưu sinh đều sinh hoạt giống
nhau với danh xưng là “hợp tác xã” đủ loại từ mua bán, cơ khí, xây cất cho đến
tận các tổ hợp gia công, đan lát…v…v… Gia đình ông tham gia và cổ võ mọi người
tích cực ủng hộ.
Ban
đầu cũng phát động rầm rộ, tuy huê lợi có kém đi, nhưng mọi người ai nấy cũng
nghĩ hòa bình rồi thì từ từ mọi việc cũng sẽ khá hơn. Nhưng lâu dần hoạt động
ngày càng suy yếu không phải vì bất hợp tác hay lao động kém mà là vì những người
thuộc bộ phận chính quyền hay những người theo đuôi hô hào đã dở không làm gì cả,
mà càng ngày lại càng giàu có, nhà ngói khang trang xây cất ở những khu đắc địa,
trong khi người dân thì càng lúc càng khó khăn hơn, thậm chí có ruộng và làm cật
lực mà vẫn thiếu ăn. Ngành nghề gì thu nhập cũng kém cỏi.
Chưa
bao giờ có cảnh công nhân lao động và giáo viên tập trung xếp hàng lãnh lương
thực theo tem phiếu hàng tháng, tính theo đầu người chỉ có hơn chục ký gạo và
thịt heo xẻ ra chia từng kí lô. Vải vóc phát phiếu được mua vài mét một năm…
Nhìn quang cảnh chia chác hàng tháng ở trường mà ông giáo thật là ngán ngẩm. “Không
biết họ làm ăn, tính toán ra sao? ”
Cho
đến khi chiến tranh lan tràn qua bên Miên, trai tráng trong làng bị bắt đi
nghĩa vụ qua bên đó chết và bị thương rất nhiều, thì tình hình lại càng khó
khăn hơn. Có nguy cơ chết đói đến nơi. Đã thế công an còn hoạnh hoẹ, kiểm tra bắt
bớ những người đi luôn lẻ vài ba túi gạo hay ít kí lô thịt lậu. Có khi chỉ
là đi tiếp tế cho con cái đang sống ở thành phố.
Trong
khi đó cũng có nhiều người bất mãn, sống không nổi bèn tìm kiếm cách vượt biển
vượt biên mà đa số là dân chúng thuộc vùng quốc gia kiểm soát trước đây. Chính
quyền phát loa hằng ngày ở chợ kết tội họ thuộc thành phần phản quốc. Công an
khám xét từng nhà trong xã để kiểm kê những người vắng mặt và nêu rõ tên tuổi,
buộc các chủ hộ phải làm tờ trình báo cáo lý do vắng mặt. Chính quyền còn răn
đe, dọa là sẽ xử án thật nặng nếu bị bắt.
Sau
đó ít năm, trong xã số người đi vượt biên mất tích không biết là bao nhiêu,
nhưng số người bị bắt lại rất nhiều và thân nhân xin đi thăm tù vượt biển vượt
biên đã thành phong trào. “Con nuôi cá hay má nuôi con.” Hình như gia
đình nào cũng có người liên hệ đến thành phần “phản quốc” nầy. Ban đầu còn lên
án sỉ nhục nhưng rồi dần dần sau đó lắng xuống vì công an cũng dính dáng đến
các tổ chức đưa người vượt biên trái phép. Chuyến đi nào trót lọt cũng có công
an bảo kê.
Tình
hình bớt căng thẳng hơn kể từ khi Năm Phương vượt biên thành công, và sau đó
hàng tháng người nhà đều nhận được công khai những thùng quà có giá trị ngang bằng
với trúng mùa ba công lúa ruộng, thì cả khu chợ mới nầy gia đình nào cũng dò hỏi
đường dây vượt biên vượt biển ở đâu mà Năm Phương đi lọt. Chợ kênh Mười Hai lúc
bấy giờ lại nổi lên nhiều quán cà phê không có bảng hiệu gọi là cà phê “chui”
chủ yếu là phục vụ khách vãng lai. Xì xầm cũng truyền tai nhau toàn là chuyện
vượt biên.
Từ
chợ kênh Mười Hai đi tàu đò qua Miên chỉ độ hơn bốn tiếng đồng hồ. Dân đi buôn
lậu qua lại hàng ngày tương đối rất dễ dàng. Chợ trời biên giới hoạt động rất
thịnh hành với các mặt hàng chủ yếu lúc bấy giờ là thuốc Tây, vải vóc và thuốc
lá. Thỉnh thoảng cũng có lưa thưa một số người ban đầu đi buôn lậu sau đó mất
tích luôn cho tới khi tới được trại tỵ nạn Thái Lan thì mới có tin về là còn sống
và đang chờ đi Mỹ.
Rồi
có một hôm, cô con gái thứ của ông đang là giáo viên ở Mỹ Tho chưa lập gia
đình, về nhà xin tiền vàng để tham gia chuyến vượt biên, do người bạn dạy học
cùng trường tổ chức. Ban đầu ông còn lưỡng lự, không phải vì không có tiền. Lý
do chính là đi đâu, ở đâu sao bằng quê hương “ở ngay dưới chân mình.”
Ông vẫn thường hay nói vậy với mọi người, còn bây giờ đến lượt là người trong
gia đình muốn vượt biên, ông bèn nói tránh đi bằng cách khác:
– Đã
lớn tuổi rồi đi nước ngoài có học hành làm được việc gì đâu?
–
Sang bên đó để có cuộc sống bình thường Ba ạ.
– Ở
đây làm thầy không muốn lại muốn đi làm thợ.
Nhưng
bà giáo lại đồng ý và còn khuyến khích con gái nên cẩn thận xem đường dây vượt
biên có an toàn hay không mà thôi. Bà giấu ông về việc cầm thế căn nhà ở chợ
kênh Mười Hai cho đứa con nộp vàng đi vượt biên.
May
mắn chuyến đi trót lọt và có thư về là đã đến đảo tị nạn chờ thanh lọc để đi Mỹ
hay bất cứ một quốc gia thứ ba nào cũng được.
Trước
đây chuyện vượt biên vượt biển còn giấu kín chỉ to nhỏ đồn đại với nhau thôi,
nhưng kể từ khi có chương trình đi Mỹ thuộc diện bảo lãnh ODP thì công khai, kể
cả công an cũng đều vui vẻ làm ăn, vòi vĩnh chút tiền khi cần giấy tờ xác minh
hay hộ khẩu địa phương. Nhưng rộ lên nhất là từ khi có chương trình HO tất cả
đã trở thành phong trào đua nhau đi Mỹ rầm rộ và ồ ạt.
Đặc
biệt nhất là những tay “cò mồi xuất ngoại” làm dấy lên phong trào mua con lai để
làm hồ sơ đi Mỹ theo diện con lai lan rộng khắp nơi. Họ môi giới lập hồ sơ đủ
loại có bộ phận dịch vụ “tận ngoài Hà Nội” lo trót lọt. Hết con lai rồi tới vụ
ghép con nuôi với các gia đình đi diện HO. Hôn thú giả, thiệt tràn đồng, kể cả
giấy ra trại cải tạo đủ ba năm thiệt hay giả họ đều có cả từ khắp nơi trên miền
Nam. Giá cả mua được tương đối cũng rẻ hơn giá vàng đóng để đi vượt biên lúc
trước.
Đến
khi bắt đầu có Việt kiều ở Mỹ về thì quà cáp và đô la tuôn về tận làng quê hàng
tháng như nước đổ. Nhà nào có người đi Mỹ thì bất luận trước đây làm nghề gì và
sinh hoạt khó khăn đến mấy cũng phất lên, như những năm thời Cộng Hòa khi lính
Mỹ vừa mới sang đây. “Mỹ đi rồi Mỹ lại về.” Sinh hoạt mua bán trao đổi
hàng ngoại rất thịnh hành ở chợ hay ở những địa điểm nào mà gia đình có nhiều
người ở Mỹ.
Bẵng
đi một thời gian, cô con gái của ông giáo cũng đã đến nước Mỹ và có công ăn việc
làm trong một xưởng đóng đồ hộp trái cây. Cô lập gia đình với người bản xứ. Dĩ
nhiên là cô có đủ tiền để gởi về cho gia đình, chẳng những chuộc lại căn nhà cũ
mà còn mua thêm vài căn phố ở chợ.
Nhưng
bà giáo không cần, chỉ mong con gái bảo lãnh cho cả gia đình kẻ trước người sau
được đi Mỹ để lo tương lai cho các con cháu. Cô con gái hứa là tất cả gia đình
sẽ đoàn tụ ở Mỹ. Riêng ông giáo không chịu nộp đơn và nhất quyết bám trụ ở lại
quê nhà.
Vì
có thân nhân vượt biên sống ở nước ngoài nên ông bị cho nghỉ việc ngang xương,
có nghĩa là không được lãnh tiền hưu theo chánh sách. Ông cũng không buồn và vẫn
luôn tin rằng rồi ra mọi sự cũng sẽ đổi thay tốt đẹp. Nói không theo phe nào là
ngoài mặt, chứ trong lòng ông lúc nào cũng nghiêng về phía Việt Minh từ thời
trước và Cộng sản sau nầy.
Lịch
sử đất Cai Lậy nầy ông biết rất rõ từ thời Hai Oanh cho đến Chín Kiên theo Việt
Minh bị bắt đày đi Côn Đảo và chết rũ trong tù. Các con của Chín Kiên cả nhà đều
theo Mặt trận giải phóng là Năm Khinh, Bảy Cát, Thanh Tâm đều là liệt sĩ thiệt
mạng trong chiến tranh. Cùng là con nhà nghèo với nhau nên ông giáo giao du
thân tình với gia đình Chín Kiên. Những năm sau hòa bình 54, Năm Khinh còn ra
chợ Cai Lậy lợp nhà cho ông rồi khi Mặt trận nổi lên, hắn ta đi theo và sau nầy
trở thành cấp chỉ huy Huyện đội Cai Lậy. Năm Khinh chết rất sớm trong những năm
đầu thập niên 1960.
Nói
chung là ông sống ở vùng quốc gia kiểm soát và làm việc hưởng lương chính phủ
quốc gia nhưng tư tưởng lại có cảm tình với Cộng sản. Ông không theo hẳn phía
nào là thật vì trong lòng luôn mong sẽ có một ngày hòa bình thống nhất đất nước,
dù là Cộng hòa hay Cộng sản. Cho nên ông rất vui mừng khi thấy “hòa bình được lập
lại” năm 1975. Ông tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối
của chính quyền mới.
Thế
rồi kể từ sau khi bị cho nghỉ dạy, ông giáo trở về căn nhà cũ canh tác ba công
ruộng lúa. Lúc bấy giờ chợ kênh Mười Hai cũng bắt đầu dỡ phá, xây dựng lại lớn
hơn và giải tỏa toàn bộ khu vực xung quanh cho đến tận bờ kinh để “lên phố”
thành thị trấn. Căn nhà sát bờ kênh, bên cạnh cầu sắt ông cất hồi mới trở về
quê bị phá dở và nếu muốn thì đóng tiền trị giá năm lượng vàng để được cấp một
căn phố mới ở chợ, hoặc được đền bù tiền theo thời giá lúc bấy giờ. Ông có
trình bày hoàn cảnh già yếu neo đơn và được trả lời là chờ cứu xét.
Ông
chờ mấy năm mà cũng không đi đến đâu, cho đến khi xã thông báo là nhà ông thuộc
diện đền bù. Lúc trước còn là công nhân viên chức ông được miễn các khoản đóng
góp ở địa phương. Nay thì ông phải đóng đủ mọi loại tiền, ngoài tiền thuế hằng
năm còn thêm phần tự quản tại xã như sửa chữa đường xá, tiền thuê lao động xã hội
chủ nghĩa… Nhưng đau buồn nhất là căn nhà ở chợ được đền bù với giá không đúng
với thời giá. Đặc biệt là các căn phố mới xây đều do các viên chức chính quyền
làm chủ hoặc sang nhượng lại cho người ở các nơi khác về làm chủ lấy tiền chênh
lệch giá.
Tự trong
thâm tâm ông rất buồn khi không còn được ai kính trọng hay ít ra cũng nể nang
như người cố cựu ở xứ sở nầy. Câu nói làm ông đau nhói lòng là thời bây giờ sự
kính trọng chỉ đặt trên căn bản tiền và quyền thế. Ông như người hết thời nói
không ai nghe.
Mới
đó mà cũng đã gần 20 năm. Từ một khu dân cư hiền hòa, làng xóm yên bình nay trở
thành khu phố thị đông đúc, người mới đến đem theo đủ thứ tệ nạn. Xã hội ngày
càng nhiễu nhương, cướp bóc hoành hành. Mọi giá trị đạo đức không còn chuẩn mực
nào nữa. Ăn nhậu khắp mọi nơi, tụ điểm ăn chơi trác táng mọc lên như nấm. Thuần
phong mỹ tục không còn ai quan tâm. Bọn cường hào ác bá cấu kết với côn đồ xã hội
đen lộng hành hơn cả thời Pháp thuộc. Càng lúc ông càng thấy không còn hy vọng
gì để thay đổi hay đóng góp được gì nữa cả.
Cho
đến khi chính quyền xã phát động chương trình “Việt kiều yêu nước” đóng góp xây
dựng xứ sở giàu đẹp và trợ giúp các tổ chức nhân đạo ở xã, thì ông là người được
khuyến cáo tham gia đầu tiên. Ông từ chối, viện lý do thu nhập kém. Cán bộ giải
thích:
–
Bác có thể hứa đóng góp theo mức qui định và xã sẽ thu hằng tháng.
–
Làm gì ra tiền mà đóng.
–
Bác thuộc diện có thân nhân đông đảo ở nước ngoài.
Ông
giáo im lặng và sau đó chính Bí thư xã đến vận động khéo hơn. “Chỉ là tự nguyện
tham gia ủng hộ bao nhiêu cũng được, giống như thời chống Mỹ cứu nước vậy thôi.
Tình hình nói chung là xã đang cố gắng phấn đấu để được công nhận là Thị trấn
tiên tiến.” Nghe tới đó, ông nghĩ thầm chỉ có căn nhà hai tầng bên kia sông của
ông bí thư xã là xứng đáng trở thành dinh thự ở Thị trấn tiên tiến kênh Mười
Hai nầy. Thời Pháp thuộc Dinh quận Cai Lậy cũng không bằng.
Thêm
vào đó gia đình bà giáo cùng các con ở bên Mỹ sống yên ổn, làm ăn bình thường
và học hành tiến triển khả quan. Thơ từ, hình ảnh là bằng chứng làm ông nghĩ đi
nghĩ lại nhiều lần. Đến khi nhìn thấy qua ảnh chụp đứa con trai út của ông tốt
nghiệp kỹ sư đàng hoàng danh giá thì ông không còn gì để luyến tiếc nữa bèn âm
thầm nộp đơn xin đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Vì mở lại hồ sơ cũ nên mất
nhiều thời gian xác minh.
Ông
giáo mòn mỏi chờ đi Mỹ cho tới khi mắt càng ngày càng mờ dần và chừng hai năm
sau, khi có giấy gọi đi phỏng vấn thì đôi mắt ông đã không còn thấy đường. Ông
đi diện đoàn tụ gia đình nên khi lên phái đoàn Mỹ phỏng vấn họ không có hỏi câu
nào cả và cho ông đậu ngon lành. Về xứ, chính quyền và công an xã hỏi ông “đi Mỹ
để làm gì.” Ông trả lời:
–
Đi Mỹ mổ cườm cho sáng mắt.
Ông
giáo tiếc là không đi sớm hơn vì có khi không còn kịp để chữa trị.
Trần
Bạch Thu
No comments:
Post a Comment