Đây là một câu chuyện tình được kể lại trong bối cảnh Qui Nhơn của những ngày cuối cùng tháng 3/75 . Vì kể lại dưới hình thức là một truyện ngắn nên có chút ít thêm thắt vào cho có hậu . Trong hình là đỉnh đèo An Khê trước nơi chứng tích mối tình của hai nhân vật trong câu chuyện
Quan Dương
*****
Apartment nơi chàng ở nằm trên tầng hai, phía sau phòng ăn là một balcony nhỏ, ở đây có một chiếc ghế nhựa, chàng thường ngồi lên đó, vừa hút thuốc vừa nhìn thiên hạ phía dưới. Hoặc mỗi khi có điều gì phiền não chàng cũng thường nhìn trời đất quạnh hiu thổi những ngụm khói cay xè đắng nghét vào không gian để trầm tư mặc tưởng. Phía dưới balcony là một khoảng sân rộng dùng làm parking. Mỗi chiều sau giờ tan sở những chiếc xe đủ loại, đủ màu sắc, cũ mới lẫn lộn từ các nơi về đậu san sát bên nhau. Để giải buồn chàng thường phân nhóm xe theo màu sắc và ví khu parking này như là nước Mỹ, còn tất cả màu sắc kia đại diện cho từng màu da của từng dân tộc qui tụ về đây để làm nên hợp chủng quốc. Chỉ một parking nhỏ thu hẹp này thôi, cũng đủ thấy giàu nghèo khó mà lẫn lộn.
Cái tật ghiền thuốc chàng không bỏ được, cho nên chiều nào chàng cũng phải ra balcony để giải quyết cơn ghiền, thét đâm thành thói quen. Và rồi không biết tự lúc nào, chàng phát giác ra chủ nhân của chiếc Toyota Cressida đời 89 màu bạc cứ mỗi ngày vào khoảng 4 giờ chiều về đậu phía dưới parking là một cô gái Việt Nam. Mặc dù chàng có thể quan sát từ phía sau lưng, nhưng chàng tự cả quyết như thế, bởi vóc dáng mảnh khảnh của cô gái rất dễ phân biệt trong đám Mỹ đủ màu, huống hồ cô gái lại có một suối tóc đen huyền thả ngang thắt lưng. Mái tóc đặc biệt này chỉ có ở những cô gái Việt Nam mà thôi. Mái tóc đó cộng với vóc dáng hài hòa đã gợi cho chàng nhớ lại vóc dáng của ai kia, mỗi chiều trong quá khứ đậm nét trong lòng. Chàng đâm ra tư lự muộn phiền. Ở đâu đó trên quê nhà dịu vợi trong đời, một hình bóng đã đi qua, bi thương và nhức nhối không thể phôi pha. Điếu thuốc trên môi chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi để cháy vừa đủ cho cô gái bước xuống xe, khóa cửa và bước vào khu Apartment trước mặt. Cô gái không bao giờ ngước nhìn lên để biết rằng mình đang được theo dõi, thành thử khuôn mặt đẹp xấu cỡ nào chàng rất mơ hồ không xác định.
Cứ thế mỗi chiều chàng ra balcony đứng
hút thuốc để đợi cô gái về vào giờ nhất định và đậu xe ngay nơi parking đó. Cho
đến một hôm, cô gái chợt tình cờ nhìn lên bắt gặp chàng đăm đăm nhìn mình.
Trong khi chàng còn đang bối rối vì bị bắt gặp quả tang nhìn lén, thì cô gái
nhoẻn miệng cười gật đầu:
"Chào chú”
Chàng ấp úng:
"Chào cô bé. Cô bé đi làm về?"
"Dạ"
Lần hội ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi. Nhưng
không hiểu sao khi thấy được rõ ràng khuôn mặt cô gái chàng bỗng giật mình. Cảm
giác cho chàng biết là khuôn mặt đó rất ư quen thuộc, chàng đã từng gặp ở đâu
nhiều lần trong cuộc đời.
Khuôn mặt đó đã làm tôi choáng váng. Những
lúc đêm về, ngước nhìn lên bầu trời hồn lang thang một mình trong không gian
bao la giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh, bỗng nhiên tôi quá cô đơn. Một quá khứ
tuổi thơ ở nơi nào xa thẳm trong tận đáy tâm tư bỗng hiện về tê buốt hãi hùng đến
quá đỗi chạnh lòng. Đành cuả tôi giờ này đang làm gì ở thế giới miên viễn bên
kia. Có thơ thẩn một mình nhìn lên bầu trời giống như tôi lúc này hay không? Bất
giác tôi tự trả lời: nơi ấy nàng đơn độc quá không còn tôi bên cạnh để cùng tưởng
nhớ về một chuỗi tháng năm qua không thể nào quên.
Đành ngồi sau lưng tôi, chiếc xe Honda
Dam chỉ cần 5 phút chạy ngoằn ngoèo là đã ra khỏi thị trấn, nàng hỏi:
"Bây giờ mình đi đâu đây Tấn?"
"Đi đến tận cùng trời cuối đất"
Cùng trời cuối đất cuả tôi là chạy lòng
vòng trên những con đường đất nhỏ. Nàng rất thích những con đường này, bởi vì
dưới những lũy tre im vắng mà những tàng lá trên cao hai bên giao nhau chỉ để rớt
xuống mặt đường những giọt nắng màu hanh vàng. Xe chạy qua, những giọt nắng bám
lên người và nàng thích thú đưa tay ra hứng. Những lúc đó khuôn mặt nàng đầy rạng
rỡ thanh cao. Còn tôi trần tục thì thích những con đường làng bởi vì nó đầy ổ
gà lởm chởm, có lý do để nàng ôm chặt lấy tôi để khỏi bị rớt xuống đường. Thỉnh
thoảng, một luồng gió nhẹ cuốn theo mùi thơm cuả cỏ, thổi làn tóc dài quyện lấy
vai tôi. Một vài sợi tóc nghịch ngợm vuốt ve vào mặt làm tôi ngây ngây ngất ngất.
Nàng cũng biết rõ là tôi ma giáo cố ý không tránh ổ gà, nhưng người thanh cao lại
đồng loã với tên phàm tục để cho kỷ niệm tràn đầy tuổi đầu đời cuả hai kẻ yêu
nhau.
Lần về phép đầu tiên từ quân trường Đồng
Đế, năm đó thị trấn Ninh Hoà bị ảnh hưởng cuả một cơn bão không biết từ đâu đưa
tới. Nước từ thượng nguồn KrongBut Ban mê Thuột đổ về con sông Dinh nhỏ xíu nằm
giữa thị trấn. Con sông lưu lượng không đủ chưá nên nước tràn ngập các lối đi.
Nhà nàng nằm trên bờ sông không hiểu sao vẫn còn đứng vững trước cơn phong ba
bão táp. Mưa đã tạnh, chỉ còn tiếng nước bì bõm theo đôi giày nhà binh nặng
trĩu đối vơí anh chàng sinh viên sĩ quan non trẻ như tôi. Nhà vắng, không một
bóng người, chỉ có nàng đang nằm ngủ trên chiếc giường tre ọp ẹp. Nàng nằm ngủ
tỉnh bơ xem như chuyện gió mưa là chuyện cuả trời đất còn chuyện ngủ là chuyện
cuả riêng nàng, hai chuyện đó không dính nhập vào nhau. Về phép không báo trước,
tôi định dành cho nàng một bất ngờ. Ai dè ngược lại nàng dành cho tôi một bất
ngờ lớn hơn. Nàng nằm đó, nét con gái với những đường cong chưa phát triển hết
cuả tuổi dậy thì đã làm cho tim tôi bỗng nghẹn ngào thảng thốt. Trong giấc ngủ
nàng như hơi mỉm cười hơi thở nhẹ làm cặp vú bằng cái núm cau nhỏ xíu quên mặc
áo ngực nhấp nhô như mời gọi. Tôi chỉ biết quì bên cạnh giường nàng giữa dòng
nước để ngắm nhìn im lặng. Trong tôi là một nỗi đam mê thánh thiện, tiềm thức
đã in sâu khuôn mặt nàng và làn tóc rối. Hệ thống quay phim trong đầu tôi làm
việc, tôi quay đi quay lại khuôn mặt thánh thiện đầy man dại kia trong giấc ngủ
và lưu giữ nó vào từng sợi máu trong hệ thống thần kinh não tủy. Mỗi khi nhớ đến
tôi chỉ cần nhắm mắt, khuôn mặt nàng như một khúc phim quay chậm lần lượt hiện
ra cùng với niềm thương yêu theo tôi cho đến cuối đời.
Khuôn mặt đó rất thân quen, chàng làm
sao quên được. Chàng cố moi óc để nhớ, để suy luận cô gái này mình đã từng gặp ở
đâu, nhưng không thể nào nhớ nổi. Cô gái chỉ vào khoảng 20 trở lại, còn chàng
thì đã ngoài 40, có một khoảng thời gian quá cách biệt không thể tạo ra trường
hợp gặp nhau. Nhưng không hiểu sao từ lúc tình cờ thấy được khuôn mặt cô gái
chàng đâm ra vương vấn mơ hồ. Trước đây mỗi lúc ghiền thuốc chàng phải ra
balcony để hút vì sợ khói làm ngộp căn phòng. Giờ thì chàng cố tạo ra cơ hội,
chiều nào cũng vậy vào giờ nhất định ra ngoài balcony để có lý do nhìn vớ vẩn
xuống bãi đậu xe, chờ đợi được nhìn cô gái đi làm về. Còn cô gái từ lúc biết có
người từ trên cao nhìn xuống, không còn tắt máy lẳng lặng vào nhà như mọi khi.
Sau khi đóng cửa xe lại, thế nào cũng ngước lên cười với chàng một tí. Chàng chỉ
cần có thế, chỉ cần có bấy nhiêu đó mà thôi, hồn mình bỗng nhiên dịu vợi. Hai
người đã mặc nhiên quen biết nhau: người chờ và kẻ được chờ.
Cô gái nhỏ gọi chàng bằng chú, chàng gọi
cô gái bằng cô bé để thay thế tên gọi. Cả ngày chàng chỉ cần hai tiếng chào chú
êm dịu phát ra từ cái miệng hình trái tim nhỏ nhắn kia. Đến nỗi đôi lúc chàng tự
giật mình, không biết mình chờ đợi cô gái đến khát khao để nghe hai tiếng chào
dịu dàng hay là để tìm lại một khuôn mặt, một bóng hình đã xa trong dĩ vãng? Chỉ
biết hai ngày cuối tuần cô gái không đi đâu, vắng cô gái theo thói quen, chàng
đâm ra buồn thơ thẩn. Chẳng lẽ nào cô gái lại chiếm lấy tâm hồn già nua đầy cằn
cỗi cuả mình? Chẳng lẽ chàng đã yêu cô gái này như một cơ duyên tiền định? Một
trái tim héo hắt muộn phiền đã ngủ quên một thời gian dài nay bỗng nhiên thức dậy?
Ngày ra trường tôi có mười ngày phép để
chuẩn bị về đơn vị mới. Mười ngày đó tôi và Đành chính thức yêu nhau. Mười ngày
khoảng thời gian không đủ dài để tôi dành tất cả cho nàng. Nhưng biết sao hơn,
chiến tranh đang tàn phá quê hương. Ngoài Đành ra tôi còn có bổn phận cầm súng
để góp phần bảo vệ nửa mảnh đất hình chữ S này đang bị Cộng Sản miền Bắc xâm
lăng. Ngày tôi ra đơn vị, Đành đứng bên cạnh trong lúc chờ đón xe xuôi về miền
Trung, hai con mắt nàng đỏ hoe. Tôi cố mỉm cười:
"Anh không bao giờ dám nghĩ là sẽ
có một ngày mình có một cuộc tiễn đưa mà anh thì không thể hưá ngày trở lại."
"Em cũng thế. Chỉ sợ chuỗi thời
gian sắp tới em không biết phải làm gì để khoả lấp được nỗi nhớ anh?"
Tôi đùa::
"Thì em "cứ đợi anh về " như
trong tuồng cải lương là xong có gì đâu."
"Nhưng lỡ em không đợi được thì
sao?"
"Em cứ việc lấy chồng là yên chuyện."
"Em không đuà với anh nữa"
Rồi nàng tuyên bố:
"Em đợi không được em sẽ tìm đến
nơi mà anh sẽ đến."
Tưởng nàng nói cho suông miệng. Không ngờ
tháng 1/75 đơn vị tôi đang trấn giữ đèo An Khê, Bình Định với nhiệm vụ ngăn chận
sư đoàn 320 cuả Cộng Sản Bắc Việt từ mật khu An Trường cắt quốc lộ 19 nối liền
PleiKu - Qui Nhơn. Giữa lúc hai bên đang ghìm nhau để thăm dò ý đồ chiến thuật
cuả mỗi bên thì Đành từ Ninh Hoà ra thăm tôi. Nhìn nàng bơ phờ hốc hác lặn lội
đường xa, sự xúc động khiến tôi nghẹn ngào. Nàng ở với tôi một tuần và cho tôi
tất cả, kể cả tuổi thanh xuân mà hai đưá tôi cùng giữ gìn. Biết sao hơn, cả hai
chúng tôi cùng ích kỷ trong tình yêu mà chiến tranh thì khốc liệt sẳn sàng chia
cắt bất cứ lúc nào. Những buổi sáng, sau một đêm biết mình còn sống, tôi và
nàng ngồi trên đỉnh đèo nhìn xuống đường 19 sâu thẳm chạy ngoằn ngoèo như một
con rắn nhỏ. Buổi sáng ở đó, sương mù bao phủ đầy cánh rừng phiá dưới giống như
mây bay trong truyện cổ tích. Tôi và nàng như là đang ở trên mây. Nếu không có
chiếc áo jacket nhà binh quấn chung quanh người nàng cho đỡ lạnh và trên người
tôi không trĩu nặng hai cấp số đạn trong tư thế sẵn sàng tác chiến thì tôi cứ
ngỡ tôi và nàng đang ở một thế giới khác, thật bình yên, không chết chóc, không
có chiến tranh và thù hận. Khi mặt trời vưà ló dạng ở phiá đông, chim rừng đã
thi nhau ca hát. Tôi choàng tay qua vai Đành, nàng nép mình trong lòng tôi bé
nhỏ. Tự lúc đó tôi biết rằng hồn tôi vĩnh viễn không thể thiếu nàng.
Áp lực chiến sự càng lúc càng nặng. Trước
tình hình dầu sôi lửa bỏng, đơn vị tôi có thể di quân bất chợt. Tôi năn nỉ hết
sức nàng mới chịu về. Chiếc xe Dodge cuả đại đội đưa nàng trở lại thị trấn Bình
Khê. Khi chiếc xe nhà binh cũ kỹ lăn bánh, nàng nắm chặt lấy tay tôi, đôi mắt mở
to ngơ ngác. Nàng cố thu hết hình ảnh cuả tôi lần cuối cùng trước khi bịn rịn
thả tay tôi ra. Tôi ráng nhoẻn miệng cười méo xẹo để nàng yên tâm. Đôi mắt đó
đã làm tôi choáng váng, không khóc nhưng sao long lanh như ngấn lệ. Nhìn vào
đôi mắt nàng tôi thấy mình sao quá đỗi hiu hắt cô đơn.
Chàng chạm mặt cô gái ở lối vào
Apartment một cách cố ý:
"Chào cô bé"
Cô gái đang suy nghĩ điều gì, giật mình
mở to đôi mắt hốt hoảng:
"Ồ my god, chào chú."
Thoáng một cái, chàng thấy mình biến
thành hai người đứng trong lòng đen đôi mắt cô gái. Trong khoảng thời gian một
phần ngàn tích tắc, chàng chợt rùng mình. Chàng tình cờ bước vào đôi mắt đó, mà
cả chính chàng và cô gái không hề hay biết. Cô gái hỏi chàng:
"Chú đi đâu thế?"
Chàng thật thà:
"Chú đâu có đi đâu. Chú cố tình đụng
đầu với cô bé để làm quen. Bởi vì hình như chú đã từng gặp cô bé ở một nơi nào
mà chú không nhớ nỗi “
Sợ cô gái hiểu lầm với lối tán gái cũ
rích, xưa như trái đất, chàng thêm:
"Chú nói thật đó"
Cô gái cười:
"Cháu đâu có nói chú dối đâu. Hay
là mời chú ghé lại phòng cháu chơi."
"Cô bé không ngại à?"
"Ngại gì. Cháu sống một mình, quen
được chú, thêm một đồng hương nơi xa lạ này cũng là một điều hay."
Phòng của cô gái ngăn nắp, sạch sẽ không
giống như cái ổ chuột của chàng. Chàng hỏi:
"Cô bé ở một mình?"
"Không, với một người bạn gái nữa"
"Thế cô bạn đâu rồi?"
"Nó nghỉ vacation về Florida thăm
gia đình rồi"
"Còn gia đình cô bé?"
"Đây này..."
Cô gái chỉ chung quanh căn phòng
"Không, ý chú muốn hỏi về ba mẹ"
Mặt cô gái thoáng buồn:
"Cháu không có ba mẹ"
Sợ vô tình khơi lại một nỗi niềm thầm
kín nào đó cuả cô gái, chàng lúng túng:
"Ồ... cho chú xin lỗi, chú không cố
ý."
" Không sao đâu, cháu quen rồi. Còn
chú?"
Chàng đùa:
"Chú cũng vậy, chú không có ba mẹ.
Chú ở một mình"
"Ý cháu muốn hỏi vợ con chú kìa”
"Chú mồ côi vợ từ lâu lắm rồi"
"Thế ai bảo lãnh chú qua đây?"
" Không ai bảo lãnh hết. Chú đi
theo chương trình HO. Khi phỏng vấn chú ghi danh theo kiểu con bà phước. Chính
phủ Mỹ đưa chú qua đây dưới sự bảo trợ cuả hội thiện nguyện địa phương."
Chàng sợ cô gái không hiểu con bà phước
là gì, chàng giải thích:
"Con bà phước nghĩa là tứ cố vô
thân đó cô bé"
Cô gái nhìn chàng thương hại:
"Như vậy, đứng về một phương diện
nào đó, hoàn cảnh của hai chú cháu mình giống nhau."
Kết quả những ngày ở với tôi trên đỉnh
đèo An Khê, Đành mang thai. Đầu tháng 3/75 Tiểu đoàn trưởng cấp cho tôi ba ngày
phép đặc biệt để về Ninh Hoà cưới vợ. Thị trấn hiền lành này cuả những ngày
tháng 3/75 sống trong tình trạng lo âu hốt hoảng. Ban Mê Thuột mất, phòng tuyến
đơn vị Dù trấn giữ Khánh Dương tan vỡ. Cộng Sản Bắc Việt đang theo quốc lộ 21
tiến quân về Nha Trang. Tất cả dân Ninh Hoà gởi gấm niềm tin vào sự chiến đấu
cuả các trung tâm huấn luyện Đặc khu Dục Mỹ. Tôi cưới vợ trong cơn hấp hối cuả
chính quê hương mình. Trước ngày trở lại đơn vị, tôi ngồi với nàng suốt đêm bên
bờ sông Dinh để chờ trời sáng. Dòng nước đen xanh dưới những chòm sao lấp lánh,
thấp thoáng một vài đám lục bình trôi dật dờ không biết giạt về đâu giữa cơn
bão nổ hưá hẹn đổ ập xuống vùng đất hiền lành. Nàng hỏi tôi:
"Khi nào chiến tranh kết thúc hả Tấn?"
"Anh làm sao biết được. Anh chỉ là
người lính chiến đấu theo lệnh. Nhưng anh nghĩ Ninh Hoà là ngã ba giao liên giữa
hai quốc lộ 1 và 21. Đó là hai quốc lộ chính huyết mạch để phòng thủ Nha Trang,
bất cứ giá naò cũng phải giữ không thể mất. Mà thôi, em đừng thèm nói chuyện
chiến tranh nữa, nói chuyện mình đi. Anh chỉ còn ở với em vài tiếng đồng hồ
thôi."
Giống như trăm ngàn đàn bà con gái trên
cõi đời này, nàng ngả đầu trên vai tôi khi nói về tương lai:
"Anh thích con mình là con trai hay
con gái?"
"Con gái giống hệt em"
"Em thích con trai. Con gái cứ phải
hồi hộp đợi chờ cả đời, khổ lắm. Con trai bay nhẩy đây đó khỏi phải bận tâm. À
này, con mình ra đời anh đặt tên nó là gì"
"Em chọn đi"
"Không, cho anh chọn trước"
Tôi đâu nghĩ một lúc nào đó mình sẽ có
con, nên hơi mắc cỡ. Nhưng thấy nàng tha thiết đến nghiêm trang, tôi đề nghị:
"Hay là em chọn tên con trai, anh
chọn tên con gái"
"Cũng được"
Như đã có chủ ý từ trước, nàng dứt
khoát:
"Nếu là con trai em sẽ đặt tên cho
nó là... Đăng Quang. Đến phiên anh"
"Anh à... Nếu con gái anh đặt tên
cho nó..."
Bây giờ đang là cuối xuân, nhưng quê tôi
đã là chớm hạ. Bởi cây sầu đông ven sông, những cánh hoa li ti bắt đầu rụng để
kết nụ thành trái. Tôi nhìn những cánh hoa nhỏ xíu trắng loang loáng trên mặt
nước, không khí thật yên lành như thể chiến tranh đã dừng chân ở một nơi nào xa
lơ xa lắc.
"Anh sẽ đặt tên cho con là Uyên Hạ"
Tôi giải thích thêm:
"Uyên là đôi uyên ương giống hai
đưá mình. Hạ là muà Hạ, cái muà con mình được tạo nên hình dáng. Em đồng ý
không?"
"Nghe hơi caỉ lương, nhưng em đồng
ý"
Tôi đưa ngón tay trỏ ra móc ngoéo với
nàng. Đành chỉ vào đám lục bình trên sông:
"Cuối cùng nó sẽ về đâu anh nhỉ?"
"Ra cưả biển. Tất cả đều ra cưả biển"
Nàng thì thầm:
"Biển, đó là nơi đến cuối cùng.
Sóng lặng yên lành hay bão tố. Trong chiến tranh kiếp sống cuả một con người
đâu khác gì đám lục bình trôi bềnh bồng trên mặt nước."
Sáng hôm sau tôi trở lại đơn vị trên chiếc
xe đò trống trơn. Bù lại, ngược chiều là những chiếc xe chật ních người. Dân
chúng miền Trung bắt đầu di tản về các tỉnh phiá Nam. Trên báo chí hình ảnh cuộc
tháo chạy khỏi Pleiku theo liên tỉnh lộ 7 cuả quân đội đã gây sự bất ổn cho mọi
người. Pleiku bỏ trống, đèo An Khê trở thành tiền đồn chính để giữ vùng duyên hải
trên quốc lộ 19. Việt Cộng pháo kích như mưa vào thị trấn Bình Khê trước khi ào
ạt xua quân chiếm lấy. Đơn vị tôi bị bao vây trở thành ốc đaỏ không ai ngó
ngàng đến. Chúng tôi không còn cấp chỉ huy và hậu cứ, đành phải tan hàng. Chúng
tôi chia nhau từng toán nhỏ xé rừng thoát thân số mạng giao cho hên xui may rủi.
Khi về đến Qui Nhơn, không thể nào diễn tả nỗi tuyệt vọng cuả tôi khi thị xã
không bóng người. Tiểu Khu Bình Định và Bộ chỉ huy Cảnh Sát đang còn ngùn ngụt
cháy. Hai cơ quan quyền lực nhất tỉnh bị mất bởi những tên du kích điạ phương không
đáng một đồng xu bát gạo. Những tên không đáng một đồng xu bát gạo đó khi nghe
chúng tôi còn kẹt lại Quân y viện Qui Nhơn đang tìm cách thoát ra biển đã tặng
chúng tôi khoảng 10 trái súng cối 82 ly trước khi bao vây bắt loa kêu gọi chúng
tôi đầu hàng. Ngày 01/04/75 lợi dụng trời đang chạng vạng tối, tôi và một thằng
nữa vưà bò vưà lết ra bờ biển. Chúng tôi bò lết trong trạng thái vô thức, vô
tri giác, bò không biết về đâu, làm gì, trong khi tứ bề thọ địch. Đang bò bỗng
thằng bạn cắm đầu về phiá trước. Tôi chưa kịp đưa tay ra đở thì nghe tiếng hét
lanh lảnh:
"Giơ tay lên. Đứng dậy"
Tôi ngoan ngoãn đưa tay lên khỏi đầu thật
hiền lành. Suốt mấy ngày gần như không ăn uống thêm sự lo âu không biết bị bắt
lúc nào đã khiến thần kinh tôi căng thẳng muốn nổ tung. Giờ bị bắt tư ïnhiên
tôi thở phào nhẹ nhõm. Biển rì rào bên cạnh. Tôi hít một hơi thật dài, khẻ nhắm
mắt để lắng nghe một tiếng nổ thật bình thản. Tiếng hét lúc nãy lại vang lên:
"Một tay để trên đầu, một tay tháo
giày ra mau."
Khi tôi vừa buông đôi giày, hai thằng
xông đến. Bằng tất cả sức vũ phu sẵn có, chúng kéo giật hai khuỷu tay tôi ra đằng
sau, dùng dây dưà trói chặt. Đầu mũi súng chọt mạnh vào ngực tôi đau điếng:
"Đi.."
Tôi nhẹ nhàng đi trên biển, gió từ ngoài
khơi thổi vào mát rượi. Lần đầu tiên được đi chân trần sau mười ngày đôi giày
không cởi, ngay cả trong giấc ngủ, tôi có cảm tưởng mình đang đi trên nhung.
Cát biển mịn dưới chân về đêm âm ấm chui vào từng kẽ ngón. Biển khiến tôi chợt
nhớ có lần hưá với Đành khi nào về phép sẽ đưa nàng đi dạo biển Nha Trang về
đêm.
Chuỗi ngày sau đó dưới mũi súng cuả những
tên Việt Cộng trẻ con đầu óc đã được nhồi sọ chất đầy căm thù, đám tàn quân
chúng tôi áo quần tơi tả hằng ngày phải bươi móc, dọn dẹp lại thành phố. Trong
những ngôi nhà đổ nát vì chiến tranh xác của những đồng đội tôi những người
không chịu đầu hàng và chọn cái chết , những đôi mắt mở trừng trừng không chịu
nhắm lại dù tôi cố lén đưa tay vuốt mắt từng người . Những đôi mắt ngửa thao
láo nhìn lên bầu trời dường như vẫn còn hy vọng tận cuối phương trời phiá Nam
những chiếc máy bay xuất hiện như một kỳ tích để phản kích lại đối phương như mọi
lần trước đó. Bây giờ là đầu tháng tư những chiếc loa hàng đêm trong trại giam
ra rả hét ỏm tỏi vào tai về những chiến thắng bất ngờ dễ dàng ngoài dự trù mơ ước
cuả chúng trên đường tiến quân về Sài Gòn. Những hy vọng mơ hồ cuả chúng tôi trở
thành tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng tôi vẫn phải sống vì tôi không được chết. Nói
cho đúng hơn, tôi thèm sống một cách tuyệt vọng lạ lùng.
Bọn chúng vẫn khai thác hàng ngày trên
xác thân ốm yếu càng lúc càng tàn tạ này bằng mọi kiểu. Tôi là một người lính bại
trận không còn gì để nói, cho nên bọn chúng xem tôi là một tên ngoan cố, cứng đầu.
Để tránh đau đớn cuả mỗi lần tra tấn mà da thịt tôi dù thiếu ăn đói khát vẫn
còn cảm nhận, đêm đêm trước mỗi ngày chúng dẫn tôi từ phòng biệt giam ra để hỏi
cung, tôi tự diệt sức lực còn sót lai cuả mình bằng cách thủ dâm. Chỉ có cách
đó mới đối phó với những ngọn đòn thù cuả bọn chúng. Tôi muốn mình không còn đủ
sức để tỉnh khi ngọn đòn tra tấn đầu tiên phủ lấy lên người. Trước khi chìm vào
cơn mê loạn, hình bóng cuả Đành hiện về nhức nhói đến buốt da. Tôi liên tưởng đến
nàng, vì nàng là cứu cánh trong tâm hồn và thể xác khô cằn này. Khi thể xác cuả
tôi bất chợt rung lên những khoái cảm đớn đau đến nghẹt thở, tôi gọi tên nàng
mà không khóc được, bởi cơ thể không còn năng lượng để tạo ra nước mắt.
Vì tôi cứng đầu nên bọn chúng đã biệt
giam tôi suốt năm năm trời không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau này
tôi mới biết rằng những năm này Đành cố gắng tìm tôi nhưng tôi vẫn biệt tích,
vì thế nàng đinh ninh rằng tôi đã chết. Nàng chọn ngày 01/04 là ngày Qui Nhơn bị
mất để làm đám giỗ cho tôi, và xem ngôi mộ tập thể ở dưới chân trụ cờ của Quân
Y Viện Qui Nhơn là nơi tôi yên nghỉ. Mười năm biệt xứ từ trại tập trung tôi được
thả về. Tôi trở lại con xóm nhỏ ven sông thị trấn Ninh Hoà ngày xưa. Cảnh cũ đã
không còn. Căn nhà tranh nơi nàng nằm trải tóc tuổi thơ, bão tố năm nào không
làm sụp đổ, nay giặc về chỉ còn là mô đất trống với cỏ dại mọc bao quanh. Cây sầu
đông nơi đêm cuối cùng ngồi bên nàng trước ngày trở lại đơn vị đã bị chặt ngang
lưng. Cạnh đó là đầu cuả một con đập bằng tre chắn qua sông. Rác rưới phiá trên
dòng không lối thoát vướng vào hàng cây chắn ngang cứ dật dờ, dật dờ làm cho
màu nước thêm đục ngầu. Những điều tôi biết về nàng rất ít. Chỉ biết sau khi mất
nước, nàng sinh con gái, và khi chắc chắn tôi đã chết không còn hy vọng sống
sót trên cõi đời này, nàng đã ẵm con đi đâu không rõ. Sau có người nói là nàng
đã vượt biên, toàn thể chiếc ghe đều chết chìm trên biển.
Tôi đứng trên thành cầu nhìn xuống dòng
sông. Con đập làm dòng nước lặng lờ không muốn chảy. Phải chi tôi còn nước mắt
để nhỏ xuống con sông, những giọt nước mắt sẽ làm đầy con nước, để tất cả khổ
đau cuốn phăng ra biển để gởi đến vợ con tôi. Con đập chắn ngang dòng sông nơi
kỷ niệm giống như vết dao chặt ngang thân xác này mà không chảy máu. Mười năm
tù tội đã biến bên ngoài hình dáng tôi thành một con người khác, nhưng bên
trong những nỗi khổ đau không thể nào phai dù năm tháng có chất chồng dày dày lớp
lớp. Vì nàng đã bất diệt trong tôi.
Chàng hỏi cô gái:
"Hoàn cảnh chú và cô bé giống nhau ở
điểm nào?"
"Cháu từ đảo qua đây cũng theo diện
con bà phước giống như chú." Nhìn bên ngoài cô gái gần như là Mỹ hóa,
chàng không tin cô gái nói thật. Tuy thế chàng vẫn tò mò:
"Cô bé có thể kể cho chú nghe tại
sao cô bé không có ba mẹ hay không?"
Cô gái tỉnh bơ:
"Tại vì ba mẹ cháu đã chết"
"Ồ …. cho chú xin lỗi"
"Không sao đâu chú."
Cô gái buồn buồn. Hình như có một hấp lực
nào đó xui khiến chàng buột miệng:
"Kể cho chú nghe về ba mẹ đi"
Cô gái khẽ gật đầu rồi ngồi yên. Chàng
đưa mắt thử xem con nhỏ tiếp tục làm gì. Bỗng nhiên khuôn mặt Cô gái xa xăm
nhìn ra cửa
.. Mẹ nuôi cháu trong nỗi nhớ thương người
chồng đã mất, chất chồng và áp bức chung quanh. Đối với xã hội hiện tại, mẹ con
cháu chỉ là những cọng rơm khô được hiện hữu bên lề. Cháu vô tư và cầu mong
mình yên lành như vậy, miễn cạnh cháu lúc nào cũng có mẹ bao bọc chở che. Nhưng
chính quyền lại không muốn như thế, họ muốn đốt cháy luôn cọng rơm bé nhỏ này,
bởi không gian đất trời đã là tài sản mà suốt 30 năm họ cố chiếm cho bằng được
bằng mưu đồ gian manh. Ba cháu khi còn sống là lính, một trong những lý do đã
ngăn chận phần nào thời gian sớm hơn ý đồ cuả họ. Cho nên khi chiến thắng chuyện
rửa hận họ ngồi tính sổ là chuyện đương nhiên. Căm thù trút lên đầu mẹ cháu,
người đàn bà trở thành goá buạ ở tuổi hai mươi. Mẹ cháu 20 tuổi với bào thai 5
tháng còn nằm trong bụng. Mờ tinh sương đã thức dậy tảo tần đón những gánh rau
cuả dân làng ven thị trấn, để sáng đem ra chợ ngồi bán. Kiếm sống theo nhu cầu sinh
tồn lại thường xuyên bị kết tội là chây lười lao động, quen thói ngụy ăn bám
hút máu nhân dân. Mẹ cháu là một trong những đối tượng bị kiểm điểm phê bình hằng
đêm bởi những tội lỗi mà ngay bản thân mẹ không hiểu được. Nhan sắc cuả một goá
phụ ở tuổi 20 giống như một bông hoa đang nở, thêm một lý do để đám cường quyền
cấp hạ tầng cơ sở đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân, gia ân bố thí để mong đòi hỏi
một giây phút ngã lòng nào cuả người thiếu phụ cô đơn. Mẹ âm thầm chịu đựng, luồn
lách tránh né, cầm cự qua ngày để mong sinh được cháu ra, dạy dỗ cháu nên người.
Trong lòng mẹ, cháu là chứng tích kết hợp bởi máu và tim từ một mối tình bất tử.
Mẹ vẫn âm thầm hy vọng trong một nhiệm mầu ba cháu vẫn còn sống trên thế gian
này để mà trở lại. Nhưng thực sự ba cháu đã chết. Mẹ kể ở năm cháu lên 8 tuổi,
cái tuổi chưa thấu hiểu nổi chuyện đời, nhưng có thể ghi nhận được những gì mà
mình không thể nào quên. Mẹ kể vào một ngày cuối tháng 3, khi chiến tranh kể
như chấm dứt tại thị xã Qui Nhơn thì ba cháu đã nằm xuống trong tư thế cuả một
người chiến bại. Đối với kẻ chiến thắng, đó là cái chết tất yếu cuả một tên làm
tay sai Mỹ ngụy đầy nhục nhã. Nhưng đối với mẹ, ba là một anh hùng vì người đã
nằm xuống trên mảnh đất mà người có nhiệm vụ cầm súng để bảo vệ. Ba cháu đã chiến
đấu cho đến phút cuối cùng không hề bỏ chạy như một số người. Ba đã chiến đấu
chống lại cái phi nhân, bất nghĩa mà hôm nay mọi người đã thấy. Ba cháu không
thành công vì ngươi là lính chịu chung số phận nghiệt ngã theo một qui luật,
nhưng ba đã thành nhân, ít nhất ra đối với mẹ và sau này là cháu. Tám tuổi, một
đêm mưa buồn trong túp lều tranh xa xôi quê nhà, mẹ ôm cháu vào lòng kể lại
chuyện tình giữa ba với mẹ. Mẹ kể có những buổi sáng mây mù bao quanh trên đỉnh
đèo An Khê, mẹ dựa vào vai ba bềnh bồng trên mây. Ba vững như ngọn núi để mẹ là
mây quanh năm bao phủ. Mẹ chỉ con đập chắn ngang dòng sông trước nhà, mẹ nói
nơi đó trước đây có một cây sầu đông. Đêm cuối cùng ba ngồi với mẹ nhìn những
cánh hoa sầu đông nhỏ xíu lăn tăn gợn trên mặt nước để đặt tên cháu. Có một thoả
ước giữa ba và mẹ, mẹ đặt tên con trai, ba đặt tên con gái. Khi ra đời vì cháu
là con gái nên thừa hưởng cái tên do ba để lại như một di sản của người. Cháu
còn nhớ có lần mẹ dẫn cháu đến biển Qui Nhơn mẹ chỉ vào cỗng của một cơ quan, mẹ
nói trước đây là Quân Y Viện mà dưới chân trụ cờ là nấm mộ tập thể của 47 quân
nhân VNCH tử trận. Trong nấm mồ đó có xác của ba cháu mà những đồng đội của người
trong buổi chiều ngày 31/03/75 đã vội vã chôn như một nghĩa cử tuyệt vọng cuối
cùng trước khi những kẻ miền Bắc tiến vào chiếm giữ. Mẹ nói những người đã chết
khi nhiệm vụ gìn giữ tự do không thể chu toàn nên họ không thể nào nhắm mắt. Mẹ
còn nói đời mẹ giống như những đám lục bình bập bềnh trên dòng sông quê nhà. Tất
cả cuối cùng đều ra biển để phó thác cho may rủi. Thế rồi mẹ quyết định ra đi."
Cô gái xuất thần tiếp tục nói với khoảng
không trước mặt, gần như chẳng hề biết có chàng đang ngồi bên cạnh. Cơ hồ như nếu
không có chàng, cô gái vẫn có thể nói một mình, nói với chính mình nỗi đau chất
chứa bao năm. Còn chàng, những giọt nước mắt tưởng đã khô cạn bao năm trong quá
khứ đắng cay, trong hiện tại phũ phàng, trong tương lai muôn trùng bỗng nhiên
rơi đầy khuôn mặt.
"Ngày thứ 15 lênh đênh trên biển vì
lạc hướng đi, mọi người trên thuyền chỉ còn biết mong chờ phép lạ. Trong cơn
nguy nan tâm lý chung người ta thường cầu xin đấng thiêng liêng vô hình thương
xót. Thượng đế, hoặc là không có thực, hoặc là những người trong chuyến đi nặng
đầy nghiệp chướng, cho nên đáp những lời cầu xin bi thương đó biển đem lại cho
họ một lũ người dã man hung dữ còn hơn loài cầm thú. Những tên ác nghiệt này giật
mạnh cháu từ trong tay mẹ vứt vào góc thuyền. Mẹ hét lên trong phản xạ cuả một
con cọp cái bị cướp mất đứa con, nhào tới cào cấu cố dành lại được cháu. Mẹ mạnh
mẽ phi thường trong tim óc, nhưng thể xác mẹ yếu đuối mỏng manh. Một tên đập
báng súng vào mặt mẹ, cháu nghe tiếng súng nổ và mẹ rơi xuống biển. Cháu chỉ biết
thét lên hãi hùng. Sau đó cháu ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau này cháu được
biết cháu là một trong năm xác chết còn sống bị bỏ sót lại trên ghe mà người ta
cứu được. Cháu đã mất thời gian bao năm tháng để lấy lại quân bình, và cứ thế
cháu lớn lên đầy muộn phiền trong trại tị nạn Bidong Mã Lai cho đến khi được một
gia đình từ tâm bên Mỹ nhận bảo trợ để qua đây. Hiện cháu đang sống bình thản
như một người đã chết, còn những người đã chết thì đang sống muôn đời trong tận
cùng nỗi đớn đau mà cháu ấp ủ."
Cô gái ngừng nói. Tự nhiên cô nhoẻn miệng
cười đưa chiếc khăn tay lên chậm chậm hai con mắt của mình. Ở đó là những giọt
lệ long lanh:
"Cháu bỗng dưng bắt chú nghe chuyện
của cháu, kỳ ghê. Nhưng cháu cũng không hiểu sao ở chú dường như có một cái gì
khiến cháu cầm lòng không nổi. Một cái gì đó đã gây cho cháu vô cùng xúc cảm."
Chàng không trả lời cô gái, chàng chỉ hỏi
một điều gần như lạc đề:
"Cô bé có còn giữ tấm hình nào cuả
mẹ hay không?"
"Dạ còn, chú muốn xem à?"
Chàng gật đầu. Cô gái đứng dậy lục trong
xách tay, lấy đưa cho chàng một tấm hình đen trắng. Tấm hình đã muốn ố vàng vì
thời gian năm tháng. Trong hình một người đàn bà khoảng 24, 25 tuổi đứng gần
bên một đưá bé gái. Sau lưng là căn nhà tranh, một bên chái quỵ hẳn xuống được
chống lên bằng cây nạng gỗ. Căn nhà trông giống như một phế binh lạc loài cô
đơn.
"Đây là mẹ cháu. Đưá bé gái này là
cháu lúc đó lên năm tuổi."
Người đàn bà mái tóc cắt ngắn, không còn
dài như xưa, nhưng khuôn mặt kia làm sao chàng quên được. Khuôn mặt đó đã tan
thành máu nuôi cơ thể chàng suốt bao năm. Chàng hốt hoảng quay sang nhìn cô
gái. Lúc này chàng mới phát giác ra rằng: mái tóc đó, khuôn mặt đó, đôi mắt đó,
vóc dáng đó là của Đành hai mươi năm về trước. Thảo nào khi gặp cô gái chàng đã
có cảm giác thân quen như đâu từ muôn kiếp. Thật giản dị, tại sao mãi đến giờ
phút này chàng mới biết được?
Chàng cũng chợt nhớ, từ lúc quen cô gái
đến giờ chàng vẫn chưa có dịp hỏi tên. Giờ thì chàng hỏi mà giống như kiểm chứng,
xác nhận một điều:
"Cô bé có phải tên là... Uyên Hạ?"
Cô gái ngạc nhiên gật đầu, chàng tiếp:
"Mẹ cô bé tên... Đành?
Lần này thì cô gái thảng thốt:
"Tại sao? ....Tại sao chú lại biết
tên mẹ cháu?"
Giống như vừa kéo xong một bi thuốc lào
vào buổi sáng bụng trống, chàng nói trong cơn say dật dờ choáng váng như là nói
cho riêng mình đã trở thành một hồn ma hiện về báo mộng:
"Vì sao à?...Vì tấm hình này là
hình của vợ con ta. Vì mái tranh nghèo đổ nát phía sau là chứng tích nơi ta đã
từng đến đó, từng ở đó từ những năm tháng còn thơ. Trước mặt còn có một dòng
sông, lần cuối ta ngồi bên ai vào một đêm tối trời để đặt tên cho con là Uyên Hạ.
Và bởi vì ba là người lính thua trận mà hai mươi năm về trước, mẹ con tưởng rằng
ba đã chết
Quan Dương
No comments:
Post a Comment