Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm
Ghi chú: Được tự do trích đăng và phổ biến rộng rãi trên báo chí & các diễn đàn điện tử – Cám ơn.
Vui lòng cho biết những sai sót để chúng tôi tu chỉnh. Email liên lạc với tác giả:
Trong
bối cảnh rối loạn của những ngày cuối tháng 4/75 thì sự ra đi của Hạm
Đội HQVN là một cuộc di tản hoàn hảo đã làm HQVN hãnh diện. Nhưng bên
cạnh những hạnh phúc tột cùng của những người ra đi được đầy đủ gia đình
thì bên cạnh đó là nỗi bất hạnh không tả siết của một số các Hạm Trưởng
và các Thủy Thủ Đoàn đã không đem được gia đình vợ con mặc dù họ đã chu
toàn nhiệm vụ thật xuất sắc trong chuyến hải hành cuối cùng.
Do
đó khi viết về Hạm Đội ra khởi chúng ta không thể nào bỏ qua chiếc
Thương Thuyền Việt Nam Thương Tín vì thủy thủ đoàn của con tàu định mệnh
này được thành hình từ các Hạm Trưởng và Đoàn Viên kém may mắn. Sau khi
chính phủ Hoa Kỳ đồng ý chọn chiếc tàu VNTT làm phương tiện cho những
người muốn hồi hương. Vào trung tuần tháng 8 năm 1975 trong số 200 cựu
nhân viên HQ tại trại hồi hương Asan. Cựu HQ Trung Tá Trần Đình Trụ
TLP/HQ/V5DH đã được mọi người bầu làm Thuyền Trưởng và một danh sách
thủy thủ đoàn được thành hình dựa theo các ngành nghể của từng người.
Anh Trần đình Trụ K 8 HQNT đã từng làm HT của nhiều chiến hạm: PGM,
LSSL-229, LSM -403, LST. Cuối năm 1972 anh được chỉ định làm Hạm Trưởng
để nhận lãnh Tuần Dương Hạm Ngô Quyền HQ 17 tại Philippines do Hoa Kỳ
chuyển giao. Chức vụ cuối cùng của anh là TLP/HQ/V5DH. Đêm 29/4 trong
giờ hấp hối của Saì Gòn anh đã ra đi từ BTL/HQ trên HQ 406. Khi tới Guam
vì kẹt gia đình anh đã xin hồi hương bằng tầu VNTT. Phần tôi vào đầu
năm 1967 sau khi đi thực tập Đệ Thất HĐ về tôi được thuyên chuyển xuống
chiếc HQ 229 cũng là lúc anh Trụ rời chiến hạm để đảm nhiệm một đơn vị
trên bờ. Anh Trụ là vị HT đầu tiên của HQ 229 và tôi là HT thứ 13 và
cũng là HT cuối cùng của HQ 229. Như một định mệnh chúng tôi đã chở
thành TT và TP của chiếc tàu hồi hương Việt Nam Thương Tín (VNTT).
Để
hiểu rõ câu chuyện, chúng ta cần tìm hiểu lý lịch và những hoạt động
của tầu VNTT trong những ngày cuối Tháng Tư Đen. Sau đó sẽ đi sâu vào
chi tiết về chuyến trở về của con tầu định mệnh này.
Thương
thuyền Việt Nam Thương Tín 1, thường được gọi là tầu Việt Nam Thương
Tín (VNTT) là chiếc tầu viễn dương đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
mua lại năm 1968, thuộc Công Ty Việt Nam Hàng Hải (VNHH – Vietnam
Marine Lines Co, Inc), Tổng Giám Đốc VNHH là ông Dương Liên, trụ sở ở
đường Tôn Thất Đạm. VNHH là một công ty đầu tư trực thuộc ngân hàng
VNTT; ngân hàng này là phân bộ chuyên về thương vụ của Ngân Hàng Trung
Ương Quốc Gia VN, bắt đầu hoạt động kể từ tháng giêng năm1956 với số vốn
200 triệu đồng trích từ ngân hàng trung ương. Ngân hàng VNTT sau phát
triển thành ngân hàng ngoại thương lớn nhất của VNCH, ông Lê Tấn Lộc là
Tổng Giám đốc cuối cùng. Huy hiệu quen thuộc của ngân hàng VNTT là
trương mục tiết kiệm “Con gà ấp trứng vàng”.
Tầu
VNTT do công ty Finantieri của Ý đóng vào năm 1956 mang tên Pietro
Canale. Năm 1962 hãng Nouvelle Compagnie Havraise Peninsulaire của Pháp
mua lại và đổi tên tàu thành Ville de Diego-Suarez 2 (tên của một hải
cảng nổi tiếng ở cực bắc của đảo Madagascar). Được ba năm thì tầu sang
tên cho Panama, đặt là Sonia. Năm 1968 hãng VNHH của VNCH mua lại.
Tầu
VNTT dài 148m, rộng 19m, vận tốc 14 hải lý, trọng tải 10965 tấn. Tầu
được trang bị với 1 chân vịt, 1 máy chính 2 thì của hãng FIAT, mạnh
5,500 mã lực, 3 máy phát điện.. Thủy thủ đoàn gồm từ 42 đến 45 người với
14 Sĩ quan. Vào năm 1975, Thuyền Trưởng (Quan Tầu) tầu VNTT là ông Võ
Kiết Triệu, Thuyền Phó (Goòng) là Dương Tấn Kim Sanh, Cơ Khí Trưởng (Xếp
Máy) là Phùng Văn Gạt.
Tầu
VNTT thường ghé Phi Luật Tân chở đường (sugar) xuất cảng sang Hoa Kỳ;
chuyến về thường chở sản phẩm nông nghiệp như gạo, bắp, lúa mì … từ Hoa
Kỳ chở về Sài Gòn. Ngoài những chuyến hải hành viễn dương, tầu VNTT còn
chạy đường cận duyên, chở gạo ra các tỉnh miều Trung VN.
Vào
hạ tuần tháng 2-75, tầu VNTT ghé Phi Luật Tân và Nhật Bản. Sau đó, trên
đường đi Úc để lấy sữa bột. Đần tháng 4, vì tình hình chiến sự sôi động
ở miền Trung, thuyền trưởng Vỏ Kiết Triệu xin cho VNTT trở về Việt Nam
để thủy thủ đoàn có dịp về đoàn tụ với gia đình trong lúc tình thế sôi
động để lo cho thân nhân. Mãi 2 ngày sau trong lúc chuẩn bị đón hoa tiêu
để dẫn vào cảng Sydney, VNTT nhận được chỉ thị từ công ty phải trở về
Sài Gòn gấp, lúc đó là ngày 10-4-1975. Ngày 17 tháng Tư 1975 tần VNTT về
đến Sài Gòn, cột vào hai phao nổi bên ngoài kho 5 bên Khánh Hội thuộc
cảng Nhà Rồng.
Cho
tới ngày 29-04 tình hình nghiêm trọng, hàng trăm người đã tụ tập đông
đảo, mát trật tự ở các ở bờ sông Bạch Đằng và Khánh Hội nơi các tàu buôn
còn đậu ở đó. Đêm 29/30-04, các chiến hạm Hải Quân ra khơi. 8.00 giờ
sáng ngày 30-04, tầu rời phao 1 ngoài sông vào cập bến kho 5 Khánh Hội.
Thuyền trưởng Võ Kiết Triệu rời tầu về đón gia đình, trong lúc nhiều gia
đình có liên hệ với tầu VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 cùng với một số người
may mắn vào được bên trong cổng số 5 hối hả lên tàu.
Tổng
Thống Dương văn Minh ra lệnh buông súng lúc 10.00 giờ. Khoảng gần trưa,
trong khi chờ đợi gia đình Thuyền Trưởng, một số quân nhân trên tầu hối
thúc và áp lực thủy thủ đoàn phải rời bến gấp. Lúc nầy tình hình đã rất
hỗn loạn, nhiều người chen lấn nhau lên tầu nên phải chặt giây tách
bến. Khi tầu đã rời cầu, gia đình của thuyền trưởng và thuyền phó cũng
vừa đến, nhưng tầu đã xa bờ nên bị bỏ lại, do đó sĩ quan phụ tá (Dịch)
Nguyễn Nhứt Thống trở thành Quan Tầu (thuyền trưởng) đưa tầu ra khơi.
Những
gia đình có liên hệ với VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 để theo VNTT1 sáng ngày
30-04-1975 gồm gia đình ông Nguyễn Nhứt Thống, gia đình ông Dương Liên,
TGĐ Công Ty VNHH, ông Lê Tấn Lộc TGĐ Ngân Hàng VNTT, ông …Cơ, GĐ.. Ngân
Hàng VNTT. Trong số 750 hành khách có ông cựu Bộ Trưởng Kinh Tế Châu
Kim Nhân, 1 Thẩm Phán, 1 Dân Biểu, 2 Hoa Tiêu tàu biển, 2 Bác Sĩ, nữ Ca
sĩ Phương Hoài Tâm, tất cả còn lại là Quân, Nhân, Công, Cán các cấp của
VNCH trong số có 5 Đại Tá.
VNTT
không có dự định di tản gia đình hay ít ra là Thủy Thủ đoàn không nghe
hay nhận được chỉ thị nào từ ban giám đốc. Nhưng vì phi trường Tân Sơn
Nhứt bị pháo kích và hổn loạn vào ngày chót, máy bay không cất cánh
được, quí vị của VNTT và của VNHH đã không được không vận, nên con tàu
VNTT1 là phương tiện cứu cánh cuối cùng của quí vị đó và cũng là cái may
mắn cho số hành khách tức thời của sáng ngày 30-04. Trong khi đó, phần
đông thủy thủ đoàn và gia đình của họ không có cơ hội để cùng di tản với
VNTT.
Tầu
vừa qua khỏi cầu Tân Thuận thì bị B 40 bắn từ phía Thủ Thiêm làm lủng
một lổ dưới mặt nước. Khi đến Nhà Bè, tầu bị bắn lần thứ 2 cũng từ phía
bên trái, nhưng không tổn thương nhân mạng. Vừa qua khỏi Nhà Bè, tầu lại
bị bắn lần thứ 3 bằng thượng liên bắn thẳng vào đài chỉ huy nơi một số
hành khách đang ngồi núp phía dưới làm cho nhà văn Chu Tử và một em bé
tử thương và 20 người khác bị thương. Sau đó VNTT tăng máy tối đa, ra
khỏi sông Sài Gòn, tới Vũng Tàu.
Trên
đường tới gặp chiến hạm Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 ngoài hải phận quốc tế,
một buổi lể thủy táng đơn sơ cho hai nạn nhân tử thương đã diễn ra với
sự hiện diện của đại diện Thủy Thủ đoàn và hành khách trên tàu. Dựa vào
báo cáo của Thuyền Trưởng về tình trạng của VNTT, điều kiện an toàn của
tầu và hành khách, số người bị thương, số lượng hành khách… Hạm Đội 7
chỉ thị VNTT trực chỉ Subic Bay.
Sáng
03-05-1975, 10.00 giờ, VNTT đến Subic Bay, Phi Luật Tân. Số người bị
thương được đưa lên trại Subic Bay điều trị. Tầu được tạm thời vá lỗ
thủng ở vỏ tàu, tiếp tế thực phẩm cần thiết và được chỉ thị tiếp tục
hành trình đến đảo Guam. Tầu đến Guam ngày 09-05-1975, cập bến lúc 16.00
giờ để chuyển số hành khách lên trại tị nạn ASAN, rồi trở ra neo trong
vịnh. Gia đình của thủy thủ đoàn và các nhân viên quản trị của VNHH được
phép ở lại trên tàu cho đến khi có chỉ thị mới của nhà chức trách trại
ASAN.
Tầu
VNTT là chiếc đầu tiên di tản đến Guam. Những ngày sau đó, có tầu Tân
Nam Việt đến ngày 15-05-1975, tầu Trường Hải và HQ 500 ngày 22-05-1975,
tàu Đồng Nai và Đại Dương ngày 23-05-1975.
Ngày
12-07-1975, thủy thủ đoàn còn lại trên tầu được lệnh rời khỏi VNTT,
nhập trại ASAN để làm thủ tục di cư đến Canada. Ngày 21-07-1975, nhóm
thủy thủ đoàn rời trại ASAN Guam, lên máy bay qua trại Pendleton,
California để làm thủ tục khám sức khỏe và visa vào Canada, ngoại trừ
một số ở lại California, bắt đầu sống mới nơi xứ lạ quê người!
Cuối
tháng 10, 1975, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng VNTT để đưa 1600 người đòi trở
về Việt Nam. Thế là chúng tôi mãi mãi không còn gặp lại VNTT1 nữa.
Sau
này, thuyền trưởng Võ Kiết Triệu và Xếp Máy Trần Văn Đúng bị Việt Công
bắt ra Nha Trang dẫn tàu VNTT về Sài Gòn và đổi tên Vũng Tàu và bị phế
thải năm 1986.
Vào
cuối tháng tư đen khoảng 130,000 dân tỵ nạn rời khỏi VN bằng đường hành
không hay đường biển. Ngoại trừ một số ít tới những trại phụ như đảo
Wake, đa số được đưa đến Guam. Những người đầu tiên được ở hotel hay
appartment, về sau ở trong những trại lính cũ nhưng vẫn không đủ chỗ vì
dân tỵ nạn đến mỗi lúc một đông nên có thêm những trại tỵ nạn như Asan
và nhất là ở “Tent Cicy” Orote Point, còn được gọi là Camp Rainbow có
dân số đông nhất đếm được tới 39,331 người. Nhờ được phỏng vấn và di
chuyển vào nội địa Hoa Kỳ nhanh chóng, dần dần số người tỵ nạn giảm đi
rất nhiều.
Tới
tháng 8-75 khi những hoạt động của cơ quan di trú đóng cửa, chỉ có văn
phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ hoạt động chỉ còn khoảng 5,000 người, trong số
này có chừng 3,000 chưa chịu đi định cư, ghi tên trở về VN, trong số này
đa số là quân nhân không mang theo được gia đình. Họ được chuyển tới 4
trại khác, tương đối tiện nghi hơn là Black Construction, J&G,
Hawaian và Barrigada. Những người muốn về VN biểu tình, tuyệt thực và
đôi khi bạo động để gây áp lực đòi hồi hương sớm.
Đại
diện Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ là thiếu tướng hồi hưu Herbert sau nhiều lần
tiếp xúc và thương thuyết, đồng ý để những người muốn hồi hương dùng tầu
VNTT đang đậu sẵn tại Guam làm phương tiện. Cựu HQ/Trung Tá Trần Đình
Trụ được mọi người tín nhiệm làm Thuyền Trưởng (Quan Tầu) đưa tầu về VN,
cựu HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Phước (Khóa 15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 231
được chọn làm Thuyền Phó (Goòng) và cựu HQ Thiếu Tá Vương Tế Tuấn (Khóa
15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 229 làm Dịch 1 (nói theo ngôn ngữ HHTT) phụ
trách hải hành. Anh Trần Cao Khải là Xếp Máy. Cựu HQ Thiếu Tá Phạm Ngọc
Lộ (Khóa 12 SQHQ/NT) phụ trách tiếp liệu. Thủy thủ đoàn tổng cộng khoảng
200 người được tuyển chọn trong số những người muốn đi về.
Tầu
dự trù chở khoảng 2,000 người. Phía Hoa Kỳ bỏ ra một nhân khoản trên
dưới 1 triệu đô la để tân trang toàn diện con tầu và việc sửa chữa sẽ do
HQCX của Hoa Kỳ tại Guam đảm trách. Công việc sửa chữa tiến hành khả
quan và nhanh chóng với sự phụ giúp đắc lực của thủy thủ đoàn tân lập.
kể cả việc thử máy đường trường 24 tiếng đồng hồ chạy quanh đạo Guam.
Sau
một thời gian dài chuẩn bị và huấn luyện, tầu VNTT đã sẵn sàng ra khơi
trở về VN. Ngày 15-10-75, đúng 8 giờ sáng, hành khách bắt đầu xuống được
sắp xếp nơi ăn chốn ở, dự trù tới 5 giờ sáng 16-10 mới hoàn tất cho gần
2,000 người. Trước khi xuống tầu, mọi người đều được đưa qua phòng
riêng làm thủ tục xuất hành lần cuối. Tại đây hành khách còn cơ hội lần
chót để quyết định về VN hay đi Mỹ. Vào giờ chót có thêm khoảng 30 người
từ các trại tỵ nạn ở Mỹ quá giang về VN.
Hải
trình từ Guam về Việt Nam dài khoảng 2,100 hải lý, nếu tầu chạy trung
bình 10 hải lý/giờ (gút) thì mất chừng 10 ngày đêm. Thuyền trưởng Trụ
cẩn thận tính thêm 10 ngày nữa đề phòng trục trặc hay bão tố nên yêu cầu
cung cấp thực phẩm và nước ngọt cho 2,000 người trong 20 ngày. Thiếu
tướng Hebert vui vẻ chấp thuận và còn cấp thêm 10 ngày nữa, tổng cộng là
30 ngày lương thực và nhiên liệu để dự trù trường hợp tầu đã về tới hải
phận Việt Nam, nhưng đổi ý quay trở lại Guam.
Sáng
16-10 trước khi tầu rời bến, có phái đoàn báo chí, truyền thanh và
truyền hình Hoa Kỳ tới cầu tầu phỏng vấn. Lúc đó, một đám đón gió trở cờ
muốn lập công với Việt Cộng đã treo hình Hồ Chí Minh và cờ MTGPMN trên
tầu, nhưng vì sắp trở về VN nên đa số phải nhịn nhục.
Khi
mọi thủ tục xong xuôi, đúng 12 giờ trưa, thuyền trưởng Trụ họp Ban Tham
Mưu, ra lệnh khởi động máy lúc 12 giờ 30 và nhiệm sở vận chuyến lúc 12
giờ 45. Trước khi tầu rời cầu, Thiếu Tướng Herbert và ông Keely đại diện
cho chính phủ Hoa Kỳ mới đến từ Washington tặng thuyền trưởng Trụ một
bộ đồ thuyền trưởng mới may rất đẹp, nhưng ông từ chối.
Đúng
1 giờ chiều ngày 16-10-175, tầu VNTT do thuyền trưởng Trần Đình Trụ
điều khiển rời Guam, mang theo cộng 1652 người trên tầu trong số này có
khoảng 200 phụ nữ và trẻ em. Chỉ ít lâu sau, tầu ra khỏi hải cảng và đổi
đường về hướng Tây, lên đường Việt Nam.
Chuyến
hành trình diễn ra tốt đẹp không có gì trục trặc. Biển tương đối êm,
máy móc hoạt động tốt. Sau 5 ngày hải hành tức 21-10, đã bắt đầu tới eo
biển San Bernadino thuộc Phi Luật Tân. Khi vào sâu trong eo, có chiến
hạm Hoa Kỳ đi theo để trợ giúp trong trường hợp có trở ngại với chính
quyền Phi. Tới chiếu ngày hôm sau, tầu ra khỏi eo biển, bắt đầu hướng về
VN. Vừa ra tới biển chừng 10 hải lý thì gặp bão, biển động nên một số
hành khách bị say sóng, nhưng chẳng bao lâu bão di chuyển về hướng khác
nên tầu không bị trở ngại nhiều.
Sang
ngày thứ 9 lênh đênh trên biển, tầu đã tới gần bờ biển VN, chỉ còn cách
chừng 50 hải lý, lúc đó có một phi cơ không tuần của HQ Hoa Kỳ bay
ngang xem có cần trợ giúp gì không, nhưng tầu không cần gì nên phi cơ
bay đi. Lúc đó, nếu tầu đi thẳng sẽ tới Vũng Tầu vào ban đêm bất tiện
nên thuyền trưởng Trụ cho đổi đường hơi chếch về phương bắc hướng về Cam
Ranh. Tầu tiếp tục đi, tới khoảng 3 giờ chiều đã bắt đầu lờ mờ thấy dẫy
núi bờ biển VN; tầu chỉ còn cách bờ chừng 30 hải lý. Đến 8 giờ tối tầu
cách bờ biển Cam Ranh 12 hải lý nhưng cũng không thấy bóng dáng tầu bè
HQ Việt Cộng. Sau đó tầu đổi hướng xuôi Nam, đi dọc bờ biển qua Phan
Rang, Phan Thiết… Tới khoảng 6 giờ sáng ngày 25-10 thấy đèn hải đăng
Vũng Tầu. Tầu vào vịnh Vũng Tầu, rồi sau đó thả neo ở Bãi Trước lúc 8
giờ sáng.
Sau đây là phần kể lại của thuyền phó Vương Thế Tuấn:
VNTT
neo ở Vũng Tầu mấy tiếng đồng hồ mà VC không hề hay biết. Sau khi biết
đây chính là chiếc VNTT từ Guam về họ đã cho trực thăng bay quanh chiếc
VNTT đồng thời cho chiếc Hộ Tống Hạm PCE 13 của ta để lại đã đánh đèn
như sau:
– How many people aboard on your ship.
Chúng tôi trả lời bằng tiếng Việt:
– Tàu chở 1,600 người hồi hương
Sau đó họ không đánh quang hiệu nữa và cho 3 chiếc SL 8 chạy ra chiếc VNTT với vũ khí hòm sẵn họ bắc loa hỏi:
– Thuyền trưởng là Mỹ hay Việt Nam .
Khi
biết là anh Trụ, họ nói mọi người ở đâu ở đó không được đi lại trên
boong rồi cặp vào với một trung đội súng ống sẵn sàng, leo lên chiếc
VNTT. Sau đó chúng niêm phong lái và cầu thang lên đài chỉ huy. Khi màn
đêm vừa buông xuống chúng ra lệnh cho thủy thủ đoàn VNTT nhổ neo và đi
theo chiếc LS 8 dẫn đường nhưng không cho biết là đi đâu. Sau 2 ngày hải
hành khi tới Cầu Đá Nha Trang thì chúng ra lệnh cho chiếc VNTT chạy vào
thả neo tại đây.
Sau
đó có một đoàn cán bộ từ trong bờ ra dẫn đầu là tên Thiếu Tá Thùy.
Chúng họp với anh Trụ và ban đại diện đồng thời yêu cầu anh Trụ lập một
danh sách gồm những người nồng cốt của chiếc VNTT. Những ngày kế tiếp
chúng cho tàu nhỏ ra chở mọi người vào bờ, kể cả anh Trụ. Trên tàu chỉ
còn lại 15 người gồm có: anh Phước TP, tôi TP/HH anh Khải CKT, anh Hiệp
GL, anh Đẳng y tế và một số anh phụ trách máy neo, đặc biệt có 2 anh Gòn ĐK và một anh CK là nhân viên cơ hữu của chiếc VNTT .
Mỗi
ngày chúng ra lệnh cho nhóm chúng tôi nhổ neo chạy xuống Cam Ranh rồi
lại chạy về Cầu Đá. Chúng tôi làm như vậy trong suốt 2 tuần cuối cùng 15
người chúng tôi cũng được lệnh rời tàu để lên bờ. Chúng chuyển chúng
tôi tới BCH/CSQG/V2 cũ của mình để điều tra. Sau hơn 2 tháng chúng
chuyển chúng tôi đến Trại Xuân Phước hay còn gọi là Z 30 để nhốt tất cả
chúng tôi là những người đã trở về trên tàu VNTT. Trại này gồm 3 khu: A,
B và C. Khu A là SQ, B là HSQ và C là binh lính cùng một số dân chính
gồm phụ nữ, con nít. Cho đến tháng 4/1977 tại khu A chúng đã cho thanh
lọc ra 120 người là những SQ cấp tá, SQ CTCT, SQ Cảnh Sát và An Ninh để
chuyển ra trại Cải Tạo Trung Ương số 3 Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh do công an quản
lý, đây là một nơi hoang vu rừng thiêng nước độc chỉ cách biên giới
Lào-Việt khoảng 30 cây số. Đội 8 rau xanh của chúng tôi gồm anh Trụ, các
SQ cấp tá các quân bình chủng đã về trên chiếc VNTT. Vì chiến tranh
biên giới phiá Bắc với TC nên giữa năm 1978 chúng đã cho chuyển những
trại giam ở biên giới về xáp nhập với chúng tôi. Đây là lần đầu tiên
chúng tôi đã gặp lại các bạn ngày xưa. Cho đến tháng 7 năm 1980 thì
chúng chuyển chúng tôi vào Nam trong đó có anh Trụ vào trại Gia Trung
Kontum. Tôi đã không được chuyển vào Nam nhưng đến đầu năm 1981 thì tôi
được thả về từ ngoài Bắc.
…
Quả là một sự may mắn đã đến với tôi khi được trả tự do vào đúng lúc
phong trào vượt biên đang lên cao điểm tại Sài Gòn. Tôi không thể ngờ
cuộc đời hải nghiệp tưởng đã lùi vào dĩ vãng nay lại có dịp thi thố. Tôi
đã bỏ hết công sức để điều nghiên chuyến ra khơi sắp tới. Do sự mầu
nhiệm sau hơn 2 ngày lênh đênh trên biển trong điều kiện thời tiết khắc
nghiệt. Chiếc ghe chở 207 người của chúng tôi đã được thương thuyền Hoà
Lan Nedlloyd Dejima vớt ngoài khơi Côn Sơn vào 9 am ngày July 3rd, 1981.
Riêng
thuyền trưởng Trần Đình Trụ được thả năm 1988,. Ông phải trả giá bằng
13 năm tù khổ sai để được gặp vợ con. Ông và gia đình đến Hoa Kỳ vào
ngày 12-12-1991 theo diện HO và định cư tại Dallas-Fort Worth tiểu bang
Texas.
Kinh
qua hồi ký vừa kể ở trên, quả mỗi người đều có một số phận cho riêng
mình. Khi còn trong tù tôi nghĩ sẽ vùi thây nơi sương lam chướng khí.
Vậy mà kỳ diệu thay tôi đã qua được, trong tù mãi 5 năm sau mới biết tin
ở ngoài đang vượt biên như một ánh sáng cuối đường hầm từ đó tôi đã
nuôi hy vọng để sống. Sau đó tôi và gia đình đã đến được bờ bến Tự Do
như đã nói ở trên. Không riêng gì tôi mà sau này tôi đã gặp lại rất
nhiều anh em của tầu VNTT tại Hoa Kỳ. Năm 2015 chúng tôi những người kém
may mắn của chiếc tầu VNTT đã thực hiện một cuộc hội ngộ 40 năm tại nam
CA quy tụ được gần 200 người.
Xin cảm ơn nước Mỹ đã hai lần cưu mang những anh em VNTT chúng tôi.
Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm
San Jose April 16th, 2019
Nguồn: tredeponline.com
Nguồn: tredeponline.com
Mấy ông này học một bài học để đời. Là sỹ quan mà kiến thức về cộng sản quá kém. Các ông làm hại đến gần 2 ngàn người khác. Các ông còn có cơ hội vượt biên vì biết hải hành, còn tất cả những người khác thì sao? Không có cái dại nào như cái dại nào? Các ông phải học kinh nghiệm về chủ nghĩa cộng sản từ người bắc di cư.
ReplyDeleteChi đăng tài liệu nầy hay quá. Cám ơn nhé.
ReplyDeleteThân.
Vinh