Ngày một, ngày hai
trôi qua, mình bắt đầu nhận ra nhiều điều thay đổi trong tâm mình. Mỗi sáng,
mình đứng nhìn dòng người dài ngoằn đang xếp hàng để được phân chia công tác.
Có một hôm mình tò mò đứng đếm, trên 200 người mỗi ngày. Họ từ khắp nơi đổ về
đây để làm từ thiện. Mình hỏi thăm, thì có người đến từ Tây Ban Nha, Đức, Pháp,
Chile, Brazil, Mỹ, Canada, Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật, vân vân... và họ thuộc
đủ mọi tôn giáo khác nhau. Ai ai cũng đều tự móc tiền túi ra để mua vé đến nơi
này làm việc thiện. Mình đã tự hỏi rằng: "Tại sao? Công việc của các nữ tu
trong Hội của Mẹ Teresa có gì mà hấp dẫn đến vậy? Hội chưa hề bao giờ quảng
cáo, kêu gọi đóng góp, xin tiền... hay gì gì cả. Thế mà mọi người vẫn biết đến
và tìm về".
Mỗi Thứ tư đều có ngày “hướng nghiệp” (orientation day). Thành phố Calcutta có
7 cơ sở, nói cho oai chứ thật ra là 7 căn nhà được phân loại ra theo thành phần
cần giúp đỡ: những bệnh nhân sắp chết, những người mắc bệnh AIDS, những trẻ em
không có khả năng tự lo, những trẻ tật nguyền nhưng còn biết chút chút, vân
vân...
Bí quyết sống vui?
Tối về mình không ngủ được, cứ tự hỏi tại sao trên đời có nhiều người bất hạnh
đến thế và lại có nhiều người hy sinh đến vậy? Động lực nào đã giúp các sơ luôn
luôn mỉm cười mỗi ngày và vui sống? Tò mò lắm, nên mình đã sống và làm theo y
hệt công việc của một nữ tu hằng ngày. Bảy ngày trôi qua đã giúp mình tìm ra
đáp số. Có những đến 3 phần tạo nên câu trả lời đầy đủ nhất:
1. Nguyện cầu trong cuộc sống: Mỗi sáng sớm, các sơ đều tập trung tại nhà chính
để đọc kinh và cầu nguyện. Các thiện nguyện viên đều vậy. Họ đến, không phân
biệt tôn giáo, im lặng, ngồi bệt dưới đất và cùng nhau cầu nguyện. Họ cầu
nguyện hết sức chân thành và liên tục trong 2 tiếng đồng hồ. Mỗi chiều sau khi
xong công việc, các sơ lại họp nhau nơi đây và tiếp tục cầu nguyện trong một
tiếng rưỡi đồng hồ, rồi mới đi ngủ. Mình đã tham dự những buổi cầu nguyện như
vậy, và lần nào mình cũng đều xúc động. Mình biết là ở trên cao, Mẹ Teresa luôn
mỉm cười khi các con của Mẹ đã và đang tiếp tục làm tròn nhiệm vụ Mẹ giao. Và
mình hiểu ra rằng nhờ có sự che chở ban phước lành của Ơn Trên, các sơ mới làm
được những điều vĩ đại ấy.
2. Sự đơn giản: Bạn cứ thử hình dung ra một buổi hội họp với hơn 200 người
trong vòng 2 tiếng đồng hồ mà không hề có một tiếng phone reo? Con người ở đây
sống với sự đơn giản tuyệt đối. Không cell phone, không máy fax, không wifi,
không computer, không laptop, không internet, cũng không cần texting hay iPod.
Họ không có cả cái ghế để ngồi. Ghế của họ là sàn đất, không xi măng, không gỗ,
không thảm.Bởi thế suy nghĩ của họ đơn giản hơn chúng ta nhiều lắm. Không tính
toán, không lo toan, không ích kỷ, không ganh tỵ hẹp hòi, không thù hằn đố kỵ.
Và vì vậy đầu óc họ cũng thảnh thơi hơn chúng ta nhiều lắm. Không sợ mất nhà,
mất tiền, mất job, không sợ tai tiếng thị phi, không sợ cả cái chết dù ngày mai
có đến.
3. Niềm vui tự có: Lúc mới tới đây mình gớm công việc giặt đồ quá đi. Đã có lúc
muốn bỏ về. Nhưng khi tiếp xúc với các em, mình mới nhận ra là mình hạnh phúc
hơn nhiều người lắm. Mình không phải nghèo (the poor), còn họ lại là những
người nghèo khổ nhất (the poorest). Họ không ăn được, không tự đái ỉa được,
không tự lo được, thì còn gì là cuộc sống. Vậy mà đã có em bé nhìn mình cười.
Nụ cười vô tư và dễ thương làm sao. Mình cười, nhưng tim mình thắt lại, và lòng
mình chùng hẳn đi. Liệu em có hiểu biết gì không, có cảm nhận được gì không khi
tặng mình nụ cười vô tư ấy? Có một buổi chiều khi làm xong hết việc, sắp đi về
ngủ thì tình cờ mình trông thấy một bông hoa nở bên một khe lạch. Mình chạy lại
xem ngay, và mừng rỡ đứng ngắm thật lâu bông hoa lạ kia. Hạnh phúc và niềm vui
tự đâu cứ tràn về. Mình happy quá, vì mình còn đôi mắt để nhìn, để ngắm, còn
đôi chân để chạy lại xem, còn hai tai để nghe tiếng nước chảy tí tách. Và mình
chợt hiểu ra rằng niềm vui không phải là những trò game trên máy tính, không
phải là những bữa ăn buffet anh ách cả bụng, cũng không phải là những text
message cứ trao đổi nhau mỗi ngày xoành xoạch. Đừng tính toán cho cái tôi của
mình nhiều quá. Khi không tìm thì niềm vui sẽ tự đến. Bảy ngày đã mang đến cho
mình biết bao là niềm vui nho nhỏ...
Vui cứ đến mỗi ngày nho nhỏ
Như từng nụ hoa đỏ mọc bên hồ
Vui cứ đến tự bao giờ chẳng rõ
Như suối nguồn trăm ách chảy trăm nơi...
Không xin - Không từ
chối...
Mình xin kể một kỷ niệm gây “shock” nữa đây. Hôm cuối cùng sắp sửa về, vì quá
xúc động trước những điều tai nghe mắt thấy, mình và người bạn tìm đến gặp một
nữ tu, nói lời từ biệt rồi ngỏ ý muốn đóng góp chút tiền cho hội. Sơ chỉ tay về
phía mộ Mẹ Teresa và bảo tụi mình đến bỏ tiền vào thùng đó (nơi mộ Mẹ có một
thùng nhỏ bằng gỗ, không hề khóa, để mọi người tùy hỉ đóng góp). Mình nói to:
"Con giúp một ngàn đô!" (mà trong lòng đinh ninh rằng sơ tưởng mình
tặng món tiền nhỏ nên mới bảo bỏ vào cái thùng ấy, chứ cả ngàn đô thì... lỡ ai
rinh thùng đó đi luôn thì sao?). Sơ gật đầu và vẫn chỉ tay về hướng ấy. Mình
lập lại lần nữa to hơn: “One thousand dollars!”. Sơ gật đầu, mỉm cười cúi chào
rồi... tiếp tục rảo bước. Mình ngạc nhiên cùng cực, không lẽ nơi đây không ai tham
và ăn cắp? Sau đó trên chuyến bay về lại Mỹ, mình có dịp trò chuyện với một
thiện nguyện viên người Nga. Cô cho biết cô đã đến Calcutta đây là lần thứ ba.
Khi mình kể lại món quà “một ngàn đô”, cô cười và giải thích: “Hội Missionary
Sisters of Charity do Mẹ Teresa sáng lập có một câu phương châm, đó là: Không
xin. Không từ chối (Ask for nothing. Refuse nothing). Nghĩa là: Chúng tôi không
quảng cáo, không kêu gọi đóng góp. Nhưng nếu bạn có lòng, thì chúng tôi nhận
tất cả những gì bạn tặng: tiền bạc, thời gian, công sức, một lời cầu nguyện,
hay ngay cả một nụ cười”. Giờ nhớ lại, mình vẫn còn thấy ngượng cho danh tự
xưng “nha sĩ từ Mỹ” mà mình tự khoe với mọi người, cũng như về món quà “to tát
một ngàn đô” mà mình “sợ mất giùm cho các nữ tu”.
Có dịp trò chuyện với các thiện nguyện viên đến từ khắp nơi, mình đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một cô bé đến từ Trung Quốc, chừng hơn hai mươi
tuổi, nói rằng cô đến đây là lần thứ hai. Mình tò mò hỏi lại: "Cô sống tại
một nước cộng sản chưa đủ khổ hay sao mà còn tìm đến đây giúp đỡ?". Cô
cười: “Có đến nơi này, tôi mới biết là không nơi đâu nghèo khó và cùng cực như
ở Calcutta và cũng không nơi đâu có thể tìm thấy những con người hơn cả vĩ đại
như các nữ tu nơi này”.
Việt Nam- Ấn Độ: Giống
và khác?
- Câu chuyện quá hay. Nếu như so sánh giữa Việt Nam và Ấn Độ, thì anh Bình có
thấy điểm gì giống và khác nhau không?
- Nhiều lắm. Cho phép mình nói về điều hay lẫn điều chưa hay nhé. Mình đã về
Việt Nam, rồi lại qua Ấn Độ, nên mình chỉ có sự so sánh rất cá nhân như thế
này. Tại Ấn Độ, giới chuyên môn như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ rất thiếu, vì dân
số đông quá, nhưng phải nói rằng họ rất giỏi vì họ ham tìm tòi, học hỏi trên
mạng, tham dự các khóa huấn luyện, chia sẻ kinh nghiệm với các giới chuyên môn
từ các nước tiên tiến như Mỹ, Canada... hằng năm đều qua Ấn. Việt Nam mình thì
thành phần professional tràn đầy, nhưng phẩm chất thì chưa được như Ấn. Ở xứ sở
này, dường như không có nạn ăn cắp, móc túi, cò mồi, hay ép giá. Người Ấn Độ có
vẻ hiền lành hơn, không thừa nước đục thả câu mà bắt nạt du khách. Mình đã về
miền Tây Việt Nam, rồi nay đi thăm miền Tây lẫn miền Đông Ấn Độ, nói thật, đi
ngoài đường tại thành phố Deesa hay Calcutta cho mình cái cảm giác bình an hơn
ở Việt Nam nhiều lắm, mặc dầu mình rành tiếng Việt, trong khi không biết một
chữ tiếng Ấn và người dân Ấn thì hầu như chỉ có một thiểu số rất ít biết bập bẹ
tiếng Anh. Xứ Ấn rất nóng, nhưng mình không thấy ai ở trần hay mặc quần đùi ra
đường, trong khi ở Việt Nam thì... (cười) đầy ra đấy. Phụ nữ tuy không che mặt
như ở các nước Hồi giáo nhưng ăn mặc rất cổ điển và hết sức kín đáo.
Còn điều chưa hay, bạn cứ tưởng tượng xem các đường phố Việt Nam bây giờ chen
chúc và kẹt xe như thế nào, thì ở Ấn Độ, mình hãy nhân lên gấp 10 lần như vậy.
Người đâu mà đông khủng khiếp. Nếu ai có than phiền rằng dân Việt Nam chạy ẩu,
bất chấp luật giao thông, đậu xe bừa bãi bất kể nơi nào, thì dân Ấn tệ gấp 10
lần hơn thế. Ai cằn nhằn rằng sao bây giờ ở Việt Nam rác rến đầy đường thì xin
thưa, Ấn Độ dơ gấp 10 lần hơn vậy.
Còn hai điểm nổi bật nhất mà ai đến Ấn Độ dù không cần để ý cũng nhận ra ngay.
Thứ nhất phải nhắc tới Bò. Bò đâu mà đầy đường đầy sá. Quay tới quay lui bốn
hướng nơi đâu cũng thấy bò. Chúng đi nhan nhản khắp nơi, và xe cộ, người đi
đường phải tránh chúng. Nghe nói bò là loài thú được người dân Ấn tôn thờ. Thứ
hai phải nhắc tới Người. Dường như bên này "Nam nữ thọ thọ bất tương
thân", nên không bao giờ nhìn thấy một người nam đi sát một người nữ, dù
là vợ chồng hay cha con, thì nói chi đến chuyện nắm tay hay hôn hít. Ngược lại
ở Việt Nam thì đầy những cảnh các cô nắm tay dung dăng dung dẻ, hay các cậu bá
vai, ôm eo cười giỡn, Chính mắt mình thấy hai người đàn ông nằm sát rạt trên
một chiếc xe lam, đắp chung cái mền và họ ngủ khò sung sướng. Có lẽ đó là do
phong tục tập quán khác nhau ở hai nước.
Còn về vật giá thì trung bình một người dân lao động đi làm cả ngày quần quật
cũng chưa kiếm nổi 5 Mỹ kim, trong khi một nhà trọ cho các du khách thì giá
khoảng 15 Mỹ kim một ngày? Một Mỹ kim bằng 53 rupee.
Hạnh phúc xả ly...
- Thế chuyến đi Ấn Độ vừa qua đã giúp anh Bình điều gì?
- Hai tuần ở hai thành phố nhỏ nơi miền Tây và miền Đông Ấn Độ đã tặng cho mình
một kinh nghiệm sống tuyệt vời. Lúc rời Mỹ, tôi cứ tưởng mình tới đó để
"dạy cho người ta, ban phước cho người ra, bố thí cho người ta". Hai
tuần trôi qua, mình mới nhận ra là mình may mắn đã "học được rất nhiều từ
người ta, được người ta ban phước và được người ta bố thí". Các nữ tu và
những con người cùng khổ nhất trong những người nghèo khổ đã tặng cho mình một
món quà vô giá: giúp mình hiểu thế nào là Hạnh Phúc Xả Ly. Con người ta thường
cho rằng hạnh phúc là "Có": có tài sản, có quyền lực, có danh vọng,
có địa vị... Khi chưa có thì muốn có, và làm đủ mọi cách để mà có. Khi có rồi
thì sợ mất hay lại muốn đòi có cái khác cao hơn, mắc hơn, xịn hơn. Nếu không có
thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở.
No comments:
Post a Comment