Tôi đẩy cánh cổng khép hờ bước vào khoảnh vườn nhỏ sau nhà em gái. Chiều cuối hè nắng nhạt dần. Mẹ đang cắm cúi tưới giàn bầu còn sót lại những trái muộn.
Tôi bước
nhẹ tới gần. Lòng xúc động, bồi hồi khi nhìn thấy trên giàn, giữa những chiếc
lá màu xanh nổi bật trái bầu đã ngã sang màu vàng úa. Tôi bâng khuâng hỏi. Mẹ định
giữ lại làm trái bầu khô có phải không? Mẹ tôi lặng lẽ gật đầu. Ngay lúc đó,
trí nhớ tôi như chắp cánh bay về muà hạ cũ.
Năm đó, lẫn trong đoàn người chạy loạn, có Ba Mẹ, dì dượng tôi
và 6 anh em. Tôi, đứa con gái bình thường tròn trịa nhất nhà, đã trở thành gánh
nặng cho cha tôi bởi cơn bệnh đến không phải lúc. Tựa đầu lên đôi vai rắn rỏi của
cha, tôi nhắm nghiền đôi mắt để cha tôi dìu đi trong khi bom đạn thét gào làm
rung chuyển cả bầu trời. Khi đoàn người lết thết chạy tới cửa ngõ ra vào tỉnh lỵ
ở Chà Là, là lúc tôi kiệt sức nằm dài dưới gốc cao su. Cơn sốt đến và cơn khát
đến, nhưng không tìm đâu ra một giọt nước. Lúc rời nhà trong lửa khói vây
quanh, xác người rải rác khắp cùng, mẹ tôi làm sao nhớ ngoài một ít gạo với
lương khô mang theo, nước là thứ cần hơn hết. Tôi chập chờn với ý nghĩ sự sống
và nỗi chết cách nhau đâu có bao xa. Chỉ cần một trái đạn pháo rớt ngay đây,
xác thân tôi rồi sẽ giống như nhiều người nhìn thấy trên đường, nát vụn bay khắp
chốn để mai này thành phân bón những cội cây.
Nhưng tôi vẫn sống và giật mình tỉnh hẳn khi nhận ra những giọng
nói mang âm hưởng nặng nề rất đỗi lạ tai. Nhìn lên là nón cối. Ngó xuống là dép
râu. Cuối cùng chính mắt tôi đã nhìn thấy họ lần đầu tiên trong tâm trạng sợ
hãi, rã rời, tuyệt vọng. Ruột không ai cắt mà đau. Dượng tôi và người anh trai,
cùng với đám trai tráng đàn ông bị họ tách riêng vì cần thêm nhiều tấm bia đỡ đạn
cho biển người ồ ạt tràn vào tỉnh lỵ. Dì tôi thét gào man dại giữa những lần ngất
xỉu tội tình. Dì quì xuống trên xác lá, giữa rừng cao su hoang tàn xiêu đổ ngả
nghiêng, vừa van lạy người sống, vừa cầu khẩn kêu thương Trời Phật. Đáp lại lời
bi thương tuyệt vọng, là những câu đanh thép lạnh lùng của đám người “sinh Bắc-
tử Nam” thuở ấy.
Ngoài mấy chữ đứt từng đoạn ruột, tôi không biết dùng lời nào để
nói lên tâm trạng của mình. Thà rằng tử biệt, có lẽ không đau bằng khi đứng lặng
nhìn theo, bóng dượng và anh tôi bước lui dần, càng lúc càng xa khuất giữa rừng
cao su thăm thẳm bạt ngàn bên cạnh những chiếc nón cối, cho cảm giác của tận
cùng sợ hãi. Cùng một tiếng nói màu da, mà sao có cảm tưởng như họ là những tên
đao phủ, được hung thần phái đến đoạn lìa sự sống của nhiều người. Tôi chợt nhận
ra, thân phận con ngưòi nhỏ nhoi tội nghiệp biết dường nào. Bất lực và mong
manh quá. Trời thật xa và đất quá dửng dưng. Ba mẹ tôi như hoá đá khi đứng nhìn
dượng và anh tôi cùng những người chung cảnh ngộ đi dần vào nỗi chết. Năm đó,
dượng tôi còn rất trẻ và người anh hiền như đất của tôi chưa đầy 17 tuổi.
Trên bờ vai chất ngất khổ đau của người cha, tôi tiếp tục lê bước
trong cơn khát đến tột cùng. Dường như khi nhận biết không còn gì để mất nhiều
hơn, thì lẽ sống và nỗi chết không làm mình sợ hãi. Mặt trời mùa hạ vẫn uy nghi
chiếu rọi những tia nắng nung người làm thiêu đốt bầu trời đang dậy lửa đó đây.
Tôi không còn sức để đau xót lặng nhìn những bàn chân phồng nước, dộp bể đang
lê lết trên đường nhựa. Những đôi dép chẳng may bị đứt, là nỗi oan khiên trên
đường chạy loạn ngày xưa. Cũng may cho tôi và đàn em nhỏ, không quăng luôn giày
dép trong cơn hoảng loạn. Nhiều người đã quấn hai bàn chân bằng chiếc áo, nhặt
vội vàng bên cạnh những xác người. Lẽ ra, mỗi đứa trẻ phải mang theo một bình
nước, thì chị em tôi nhét đầy áo mới trong những túi đeo vai. Tuổi thơ dường
như không biết đến chiến tranh, dẫu lẫn trong tiếng ru của mẹ đêm đêm là tiếng
đại bác từ xa vọng lại.
Thương nhất vẫn là đứa em gái út. Mới năm tuổi mà em đã có sự cảm nhận, sẻ chia tất cả những gì xảy ra ở chung quanh. Đói khát, sợ hãi và nỗi khổ đau trước cảnh chia lìa khiến mọi người như kiệt sức, vậy mà em- đứa bé mới lên năm vẫn lặng lẽ nắm tay mẹ lúc chạy, lúc đi bình thản như không. Lúc đó những câu nói thơ ngây, chân thành tuyệt nhiên không bật ra từ đôi môi thơ dại, mà cả nhà vẫn quen nghe và âu yếm trêu em, là con đồng bào Thượng, được ba mẹ xin về nuôi để khỏi bị ở trong rừng. Lẽ ra em đã được cõng trên vai nếu như cha chẳng dìu tôi. Tuổi thơ của em có nhiều gắn bó với những người Thượng sinh sống trong rừng ven tỉnh lỵ.
Mùa bắp đến, người đàn bà Thượng đeo chiếc gùi chất đầy bắp
sau lưng, đi chân đất từ nương rẫy thật xa tìm đến nhà tôi. Dù cả nhà chỉ ưa ăn
những trái bắp nếp luộc nóng hổi, hạt đều, dẻo và thơm lừng nhưng mẹ vẫn ưu ái
đỡ chiếc gùi, nhận hết những trái bắp đá hột to, luộc hoài vẫn cứng và khô. Mẹ
không trả tiền mà đổi lại bằng muối và gạo trắng, để sẻ chia nỗi lam lũ, nhọc
nhằn của một đời cơ cực trên rừng. Bé út khi ấy chừng bốn tuổi ngồi lặng nhìn,
quan sát thật lâu. Đợi người đàn bà mang gùi đi khuất xa rồi, bé lên tiếng hỏi
vì sao mẹ cho bà ta nhiều vậy? Mẹ cười chưa kịp trả lời, tôi và những đứa em
khác cùng trêu em gái nhỏ. Mẹ tốt với bà, vì bà đã tặng con là Út để mẹ nuôi.
Em tôi bối rối hỏi có phải thật vậy không hở mẹ? Mẹ trả lời bằng một nụ cười.
Đâu ngờ sự trêu đùa vô tình đã làm khốn khổ em tôi suốt một thời gian. Không ai
nghĩ đứa bé mới lên bốn đã biết nhận xét sự khác biệt quá nhiều giữa những người
ở rừng và phố thị. Cho tới một ngày, khi nghe mẹ tôi kể chuyện với người bà
con, ngày sanh bé út mẹ bị băng huyết ngỡ đâu đã chết bỏ lại con… Em gái nhỏ chạy
tới sà vào lòng mẹ, nói nghe tội nghiệp làm sao. Con là con của mẹ, chứ không
phải con bà Thượng. Nhìn đứa em gái ngây thơ mừng rỡ, kèm theo những giọt nước
mắt còn đọng lại trong đôi mắt thật to, mẹ và chị em tôi thương xót, ăn năn.
Đâu ngờ câu nói đùa vui trong chốc lát đã đè nặng lên tâm hồn thơ dại. Bây giờ
sau mấy mươi năm, bé út ngày xưa vẫn còn trong rất nhiều câu nói thật lòng đến
độ không ngờ. Anh tôi có khi vừa bực, vừa thương. Anh nói út vẫn là em bé con đồng
bào Thượng, dù được nuôi trong thành phố và lớn lên ở xứ sở văn minh bậc nhất
nơi đây!
Tôi khép mắt lê bước theo vòng tay dìu rời rã của cha tôi. Quanh
đó những âm thanh ghê sợ của vùng đất chết vẫn không ngừng cuồng nộ. Trong tôi,
dường như không còn cảm giác sợ hãi hay hy vọng. Bình thản đến lạ lùng khi nghĩ
dẫu bỏ thân ở lại giữa rừng, thì tôi rồi sẽ gặp anh tôi nơi cõi chết- người anh
hiền lành mà tôi luôn để ý, chở che dù chỉ là em. Bỗng đâu như có phép lạ xảy
ra. Trước mắt cha con tôi, một người đàn ông đi xe đạp bỗng dưng dừng lại. Trên
chiếc xe đòn dông cũ kỹ, lủng lẳng trái bầu khô bên cạnh ghi đông. Người đàn
ông có nước da đen bóng, mình trần trụi giữa nắng hè thiêu đốt thịt da, trao
cho tôi những giọt nước cam lồ đựng trong trái bầu khô. Tôi kê bờ môi khô nứt,
uống vội vàng những ngụm nước mát ngọt ngào, tưởng chừng như người đàn ông trên
mình không có gì hơn ngoài một tấm khố mong manh, chỉ đủ che chút xiú phần dưới
bụng, là đức Quán Âm thị hiện, vì lòng từ bi cứu khổ chúng sanh. Đưa trả lại bầu
nước mát, cho tới lúc này tôi mới nhìn ngắm kỹ càng người đã cứu mình. Đó là
người đàn ông Thượng trung niên, có mái tóc đen xoăn tít, hàm răng trắng và đôi
mắt sáng trên khuôn mặt hiền lành chân thật. Rồi theo lời Ba tôi bảo, tôi ghé
ngồi lên phía sau chiếc xe đạp đòn dông, trong khi quanh đó khói lửa, đạn bom vẫn
không ngừng rơi rớt. Ngồi nép mặt sau bờ lưng đen bóng, cảm nghe hạnh phúc còn
hơn những lần Ba tôi chở cả nhà đi nghỉ mát nơi xa. Chở tôi một đoạn đường dài,
coi như tạm tránh xa vùng lửa đạn. Người đàn ông Thượng dừng xe cho tôi bước xuống,
không nói một câu, lặng lẽ quay trở lại để chở từng người trong gia đình tôi kẻ
trước, người sau cùng đến một nơi. Khi Ba tôi có ý muốn tạ ơn, ông nói hồn
nhiên là không cần gì ngoài một ít muối bây giờ. Mẹ tôi xa xót vì không có thứ
này, xin được tặng chiếc nhẫn vàng đang đeo ở ngón tay, mong lúc bình yên người
của chốn núi rừng sẽ có cơ hội ra quận lỵ đổi lấy những thứ cần dùng trong cuộc
sống.
Người tá điền của cha tôi có chiếc xe lam từng chở lúa gạo bao
năm, đã ngoảnh mặt làm người lạ khi cha tôi cần giúp. Dì tôi bất bình, cay đắng
trước tình người, trong khi cha bình thản coi như không có. Thi ân bất cầu báo
là cách mà cha đã sống từng ngày ở trong đời. Trong hoạn nạn thường rất dễ nhận
ra, người hết lòng chia sẻ khổ đau, bất hạnh chung. Người chỉ thấy sự sống của
mình và nguời thân là trên hết. Chiếc xe lam tưởng bình yên xuôi về đất hứa.
Đâu ngờ đã nát tan mất dấu cả xe và người vì những trái mìn ẩn giấu dưới lòng
đường. Cha tôi thở dài niệm chú vãng sanh. Mong người không còn quay trở lại cảnh
trầm luân của kiếp người vui ít, khổ nhiều.
Theo đoàn người chạy loạn, cả nhà tôi dừng chân nơi vùng tạm chiếm
Tân Khai. Hoang mang, lo sợ hơn bao giờ bởi họ hoàn toàn kiểm soát nơi này. Muối
trở nên hiếm quý khi cần nấu những bữa ăn tạm bợ trên đường chạy loạn. Miếng thịt
heo vừa xẻ trong làng cùng những trái xoài xanh hái trên cây, mẹ phải đổi bằng
vàng mới có. Không thể kho thịt bằng nước lã, hay nấu nồi canh bằng cách luộc
những trái xoài non. Lần đầu tiên trong đời, tôi ăn bữa ăn ngồi bệt trên nền đất,
với thịt kho muối và tô canh xoài mẹ nấu vội vàng. Cảm thấy ngon như chưa bao
giờ được ăn ngon. Phải nếm mùi đói khát mới biết cảm niệm ơn sâu của tạo vật,
và những người đã đem lại cho mình miếng cơm, manh áo, chốn nương thân.
Một buổi chiều, đứa con trai trạc bằng tuổi ở chung nhà ngập ngừng
rủ tôi đi lấy nước chung. Nó biết gánh nước nhưng chỉ mượn được một chiếc thùng
của chủ nhà. Nếu xách thùng nước bằng một tay, đi đoạn đường hơi xa có nhiều mô
đất thấp cao, e nước sẽ đổ nhiều nên nó nghĩ ra chuyện kêu tôi cùng đi lấy nước
chung. Tôi tròn xoe đôi mắt nhìn cây đòn gánh, nhìn vào khuôn mặt của đứa con
trai có vẻ ở miệt vườn ven tỉnh lỵ, như thay câu hỏi vì sao nó rủ tôi. Tôi làm
gì biết gánh nước mà kêu gánh một đầu chung với nó. Môt thoáng bối rối khi thấy
tôi không giấu nỗi ngạc nhiên, đứa con trai giải thích bằng giọng chất phát, hiền
lành. Cô lớn nhứt nhà, không đi lấy nưóc về để tắm giặt nấu ăn, thì còn ai đi lấy
nữa? Tôi chợt nhớ ra bổn phận của mình. Hồi ở nhà, ba mẹ có đào một cái giếng
sau nhà. Chị đi lấy chồng, giao lại cho tôi lo chuyện nước non! Cả mười người tắm
giặt mỗi ngày. Tôi có hai bàn tay chai cứng quanh năm. Thầm nghĩ sẽ không lớn nổi
vì quay nước giếng và xách từng thùng nước nặng nề đổ vào chiếc bồn lớn để
dùng.
Tôi thẫn thờ nối gót theo đứa con trai, qua những mô đất mà bước
đi thong dong còn chưa vững, nói chi gánh một đầu thùng nước nặng. Tới giếng, đổ
đầy thùng nước bằng cái gàu không lớn lắm, thòng xuống bởi sợi dây dài, xong nó
tháo sợi dây đã nối sẵn hai đầu, xếp đôi lại và thắt vào thanh gỗ đóng ngang
thùng đựng nước. Xỏ chiếc đòn gánh vào dây xong, nó bảo tôi ghé vai vào đầu
phía trước, phần nó ở đầu sau. Tôi lẳng lặng làm theo như không còn sự chọn lựa
nào, thầm nghĩ sẽ có hai điều xảy ra liền sau đó: thùng nước không ngã thì tôi
cũng ngã. Thế mà tôi gượng nổi, đứng lên. Bước chệnh choạng đi tới một khoảng
ngắn rồi chúi nhủi vì bờ vai như rướm máu. Đau đến chảy nước mắt ra, bởi trong
đời chưa bao giờ chất lên vai bất cứ vật gì, ngoài trò chơi đặt đứa em nhỏ yêu
thương ngồi choàng đôi chân bé xíu trên hai vai, nắm giữ hai bàn tay nhỏ nhắn
cho em đừng tuột xuống, rồi đi những bước chậm để nghe tiếng cười trẻ thơ rất đỗi
dễ thương. Gượng lại kịp cả người và thùng nước, dù đã sánh ra vơi một ít ngay
từ bước đầu tiên. Tôi bậm môi cố giấu nỗi đau, kê chiếc đòn qua vai trái lòng
thầm mong sẽ bình yên. Tôi thuận bên trái nên bờ vai trái chịu đau có vẻ giỏi
hơn. Tôi lê lết đem được hai phần ba thùng nước về đến nơi sau nhiều lần dừng lại
xoa bờ vai buốt nhói. Ý nghĩ nếu đi phía sau chắc sẽ đỡ nặng hơn bị xóa tan,
khi đứa con trai nhìn tôi ái ngại, phân trần. Gánh đầu phía trước nhẹ hơn ở
phía sau. Điều này tôi không biết vì có bao giờ gồng gánh. Nhưng tôi tin và
thoáng ăn năn. Có lúc đau quá tôi nghĩ nó khôn bắt mình đi phía trước. Biết sức
tôi không kham nổi, thằng bé tạm trú chung nhà đành để tôi chọn cách đi nhiều bận,
xách về mỗi lần một ít nước thôi. Tôi chọn chấp nhận hai bàn tay đỏ phồng đau đớn.
Có lẽ để dành đôi vai hứng giông bão cuộc đời cuồn cuộn sau này. Cũng từ đó tôi
biết cảm thương khi nhìn những người chất trên vai gánh nặng, đi giữa trời mưa
nắng dãi dầu.
Phải mất gần tuần lễ, gia đình không tròn vẹn của tôi mới vượt
qua khỏi gần 30 cây số để tìm về vùng đất bình yên. Khoảng cách không dài lắm
nhưng thời gian như ngừng lại. Ngày nắng lửa chói chang bên tiếng bom đạn vang
rền khắp bầu trời. Đêm sâu thẳm trong bóng tối tưởng chừng tai ương đang rình rập..
Tôi biết, bấy giờ sự sống chết riêng mình không làm bận lòng ba mẹ lẫn dì tôi.
Chỉ có sự sống của dượng, của anh tôi và sự an nguy của 5 chị em tôi đè nặng
lên tâm trí ngày đêm. Đoàn người di tản chờ đêm gần sáng lặng lẽ rủ nhau đi tiếp
trên con đường quốc lộ 13, chỉ vì biết không thể nào ở lại để trở thành người
dân sống trong vùng “giải phóng”. KP, đứa bạn thân nhất của tôi thì thầm khi thấy
đám bộ đội bắt thanh niên đi họp. Ly ơi! P sẽ tự tử nếu như phải sống chung
cùng cộng sản. Một đêm rồi hai đêm. Không có đường đi tới phải quay về. Cho đến
khi ra khỏi nơi tạm chiếm, chợt nhận ra mình đã dẫm lên xác chết mà đi. Mặt trời
lên, cảnh tượng đau xót hiện ra trong tầm mắt. Xác của những người lính tiếp viện
cho An Lộc nằm la liệt trên đường nhựa. Nắng hè thiêu đốt sậm đen. Các anh nằm
đó không biết đã bao lâu. Xác căng phồng, rỉ nước nhìn đau lòng muốn khóc mà
sao nước mắt chừng như khô cạn. Người thân, gia đình của các anh có biết hay
chăng? Tôi hiểu, biết ơn và thương đời lính hơn bao giờ.
Đã ba mươi mấy mùa hè trôi qua từ dạo đó. Tôi nhiều lần băn
khoăn tự hỏi, không biết người năm xưa có còn không? Người Cha kính yêu của tôi
đã an giấc đời đời ở bên này. Dượng và anh tôi trở về từ cõi chết vài tuần sau
đó, nhờ vết thương mưng mũ của anh tôi và những cơn đau oằn người của dượng
tôi. Họ bỏ lại đám người thương tật giữa rừng vì trở nên vô dụng không thể mang
vác đạn. Người dì xinh đẹp của tôi cũng đã xa đời. Dì mất khi tuổi còn xuân sắc
vì căn bệnh ung thư. Ngày ba mẹ và chị em tôi rời quê hương, dì không còn sức
tiễn đưa. Nhìn đôi mắt dì đọng nước, rưng rưng, tôi vòng tay ôm nhẹ nhàng lúc
giã từ mà không thốt được lời nào. Chợt nhận ra, những gì đậm nét còn giữ lại từ
dì đều quá ngậm ngùi. Rừng cao su vang rền bom đạn. Dì rũ riệt thét gào giữa đất
rộng, trời cao. Hình ảnh cuối còn giữ lại là căn nhà nhỏ, sau đêm cúp điện bóng
tối còn vây phủ chung quanh. Dì ngồi đó, lặng yên bất động, khuôn mặt đẹp não
nùng như một bóng ma. Là đứa con gái mồ côi sớm, dì lớn lên giữa miền quê nghèo
mà xinh đẹp sáng ngời. Ở quê dì tạo ra một cơ ngơi bằng chính đôi tay và sự cần
mẫn siêng năng. Về sống nơi phố xá dì biến căn nhà thành quán ăn ngon nổi tiếng.
Dì là người tài sắc vẹn toàn. Dì tạo ra đó rồi mất đó. Tất cả đều mong manh như
sự sống và nỗi chết. Trong tôi hình ảnh dì luôn đi kèm với những mùa hè khó
nhòa ở trong đời. Ngày tôi rời quê hương cũng là một ngày mùa hạ của năm 1983.
Đó chính là niềm mơ ước của bao nhiêu người thuở ấy. Mơ thoát ra khỏi địa ngục
trần gian.
Trái bầu khô nhìn lại buổi chiều nay, ở một nơi được gọi là mặt
trời bên kia mùa hạ, khiến lòng tôi có chút lao xao. Nghe từ bên nhà xa thẳm mịt
mờ, những người đồng bào chân thật sống trong rừng núi đời này qua đời khác, giờ
cũng chẳng yên lành. Những giọt nước cam lồ ngày đó. Chỗ ngồi lắc lẻo trên xe đạp,
nép sau chiếc lưng đen nhánh, đem lại cảm giác an lành dù bom đạn vang rền. Tôi
mang ơn sâu khó nỗi đáp đền. Lòng vẫn hỏi sao người cùng xứ sở vì đâu không ngừng
gieo thêm đau khổ cho nhau. Người năm xưa chẳng biết có còn. Riêng tôi đã từng
có lúc âm thầm sám hối, bởi ngày xưa dù sợ rớt xuống trên đường, vẫn vì phân biệt,
e dè màu da đen đúa nên ngại ngần không dám đưa tay ôm giữ vòng lưng của ngưòi
đã đem lại sự sống cho mình thuở ấy.
Thảo Ly
No comments:
Post a Comment